Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 50

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 99

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm mười lăm, ḍng thứ năm, xem từ câu thứ hai.

      “Như thượng thập nguyện, nguyện nguyện giai viết: Ngă thử đại nguyện, vô hữu cùng tận, niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn, thân, ngữ, ư nghiệp, vô hữu b́ yếm” (Mười nguyện như trên, nguyện nào cũng đều nói: “Đại nguyện này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm nối tiếp chẳng có gián đoạn. Thân, ngữ, ư nghiệp chẳng có nhọc mỏi”). Trong đoạn kinh văn này, lúc Phổ Hiền Bồ Tát phát nguyện, đối với mỗi nguyện đều dùng mấy câu này để tổng kết. Ở đây nói “ngă thử đại nguyện” (đại nguyện này của tôi), nguyện thứ nhất là “lễ kính chư Phật”, nguyện thứ hai là “xưng tán Như Lai”, cho đến nguyện thứ mười là “phổ giai hồi hướng”, mỗi nguyện chẳng có cùng tận, tương ứng với khắp pháp giới. Đúng như “tam chủng châu biến” (ba thứ trọn khắp) trong Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư, thứ nhất là “trọn khắp pháp giới”. Trong Hoàn Nguyên Quán, Ngài nói là “dao động”. Dao động ấy hết sức vi tế, rất nhanh, mỗi dao động đều lập tức trọn khắp pháp giới. Tốc độ ấy chẳng có cách nào tưởng tượng được, chắc chắn không phải là tốc độ ánh sáng hay tốc độ sóng điện từ như đă nói trong hiện tại, chẳng có cách nào sánh bằng. Ánh sáng mặt trời từ mặt trời chiếu đến địa cầu phải mất hơn tám phút, nhưng dao động trong tự tánh vừa động liền trọn khắp pháp giới. Đó là loại thứ nhất trong ba thứ trọn khắp. Nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát cũng là một thứ dao động, bất luận là hữu ư hoặc vô t́nh, bất luận là thiện nguyện hay là ác niệm, đều là cùng một đạo lư. V́ thế, chuyện này chẳng phải là giả, mà là thật!

      Đối với mấy câu tổng kết này của Phổ Hiền Bồ Tát, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian không ǵ chẳng phải là như vậy. Hữu t́nh có ư niệm, ư niệm ấy động, tức là hiện tượng dao động; vô t́nh chúng sanh thuộc về vật chất, vật chất có dao động hay không? Có. Hiện thời, coi như chúng ta đă hiểu rơ, chẳng dao động nó sẽ không tồn tại, nhất định phải dao động nó mới tồn tại. Giống như chúng ta xem phim ảnh, phim ảnh là từng tấm phim một chiếu rất nhanh qua ống kính [của máy chiếu], khiến cho chúng ta thấy huyễn tướng trên màn bạc, ngỡ chúng đang cử động. Trên thực tế, chẳng phải là như vậy, mỗi tấm phim đều độc lập. Nếu chúng chẳng cử động (tức là từng tấm phim không được kéo qua ống kính), sự chuyển động [của h́nh ảnh trên màn bạc] bèn ngưng dứt. Nếu chúng chẳng c̣n được liên tiếp chiếu qua ống kính nữa, màn bạc trống rỗng, hiện tượng là như vậy đó. Hiện thời, sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, đó là tướng dao động liên tục. Các nhà khoa học c̣n thêm vào một câu, [hiện tượng vật chất] là hiện tượng tích lũy liên tục của ư niệm, do ư niệm tích lũy thành. Ư niệm tích lũy thành vật chất, nên vật chất có hiện tượng dao động. Nếu “sóng” [ư niệm] chẳng động, vật chất sẽ chẳng c̣n nữa, chẳng tồn tại. Các hiện tượng dao động ấy đều trọn khắp pháp giới, lập tức trọn khắp pháp giới. Khoa học hiện thời vẫn chưa thể ứng dụng hiện tượng dao dộng ấy để truyền đạt thông tin. Sự truyền đạt ấy quá nhanh, ánh sáng và sóng điện từ đều chẳng thể sánh bằng. Do vậy, câu này là thật, chẳng phải là nói tỷ dụ, mà tương ứng với pháp giới!

      Câu thứ hai, “niệm niệm tương tục” (niệm niệm tiếp nối), nói theo cách bây giờ là “tương ứng với thời gian”. Thời gian có tồn tại hay không? Niệm niệm liên tục, thời gian tồn tại dưới h́nh thái này. Nếu niệm niệm chẳng liên tục, thời gian chẳng có, đă đoạn rồi. V́ thế, thời gian cũng là huyễn tướng do niệm niệm liên tục sanh ra. “Vô hữu gián đoạn” (chẳng có gián đoạn), đấy là tương ứng với tự tánh, tự tánh bất sanh bất diệt, chẳng gián đoạn. Bất quá, ở đây, hai câu trước nói đến trạng thái dao động của tự tánh. Thật ra, tự tánh bất động, trạng thái dao động ấy chẳng thật, nó khiến cho tự tánh sanh ra ảnh hưởng, nhưng tự tánh quả thật chẳng gián đoạn, tự tánh chẳng biến đổi. Tiếp đó là “thân, ngữ, ư nghiệp”, tức là tương ứng với tam nghiệp. Mỗi nguyện đều tương ứng với pháp giới, tương ứng với thời gian, tương ứng với tự tánh, tương ứng với ba nghiệp thân - ngữ - ư. “Vô hữu b́ yếm” (chẳng có nhọc mỏi), tự tánh vốn là như thế. Đây là Phổ Hiền Bồ Tát đă nêu khuôn phép, gương mẫu tu hành cho chúng ta, nêu gương cho ai? Đều là nêu gương cho Pháp Thân Bồ Tát. Phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, phẩm này có tựa đề đầy đủ là Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Bất Tư Nghị Cảnh Giới là sở nhập (cái được chứng nhập), tức là trở về tự tánh; Phổ Hiền Hạnh Nguyện là năng nhập (cái có thể nhập, phương tiện hoặc chủ thể thực hiện sự chứng nhập ấy). Chỉ có tu Phổ Hiền hạnh nguyện mới có thể nhập cảnh giới ấy. Tịnh Tông gọi cảnh giới ấy là Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Bốn câu này, kể thêm câu cuối là “vô hữu b́ yếm” (chẳng có nhọc mỏi) thành năm câu, chính là Phổ Hiền Bồ Tát v́ chúng ta h́nh dung Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang có tác dụng, chẳng phải là vô tác dụng; chúng sanh có cảm, Thường Tịch Quang bèn hiện tướng, thuận theo tâm của chúng sanh để ứng với khả năng nhận lănh của họ.

      Đoạn tiếp theo, “Hạnh Nguyện Phẩm” (trong phẩm Hạnh Nguyện), có mấy câu như sau, “Hạnh Nguyện Phẩm phục vân” (Hạnh Nguyện Phẩm lại nói), tức là nói thêm, “nhược nhân tụng thử nguyện giả” (nếu ai tụng nguyện này), tỉnh lược những câu kế đó, [chỉ sao lục đoạn này], “thị nhân lâm mạng chung thời, tối hậu sát-na, nhất thiết chư căn tất giai tán hoại” (người ấy lúc lâm chung, trong sát-na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều hư hoại); đây là nói về người thường đọc tụng phẩm Hạnh Nguyện. Kinh văn của cả phẩm Hạnh Nguyện rất dài, gồm có tất cả bốn mươi quyển, cổ đại đức nhằm tạo thuận tiện cho hành nhân tu học, “hành nhân” là đệ tử Phật môn, tức là người y theo kinh giáo để tu hành, đặc biệt lấy ra một quyển để lưu thông đơn độc, ḥng làm cho người b́nh phàm học tập dễ dàng. Thanh Lương đại sư làm chuyện này, lăo nhân gia lấy ra quyển cuối cùng [của bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm]. Thông thường chúng ta nói đến Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm th́ quá nửa là nói tới quyển cuối cùng này. Tông Mật đại sư đă chú giải quyển ấy tỉ mỉ, đó chính là tác phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Biệt Hành Sớ Sao, [gọi tên như vậy] do nó chẳng phải là toàn bộ kinh, chỉ là quyển cuối cùng của cả bộ kinh, tức quyển cuối cùng trong bốn mươi quyển. Quyển này đặc biệt trọng yếu, quyển này chính là “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc” như trong kinh điển thường nói. Quyển này dẫn dắt về Cực Lạc, mà cũng là trong năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, đến cuối cùng, đồng tử tham phỏng Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát đưa Thiện Tài về thế giới Cực Lạc, vô cùng thù thắng!

      Nói theo người tu hành pháp môn này, ở đây [kinh Hoa Nghiêm] nói là “độc tụng”, đối trước kinh bổn để niệm th́ là “độc” (: đọc), chẳng đối trước kinh bổn [mà đọc thuộc ḷng] th́ gọi là “tụng”. Tụng () là niệm thuộc ḷng, niệm rất thuần thục, có thể niệm thuộc ḷng một quyển kinh văn này. Đọc cũng thế, mà tụng cũng vậy, chẳng thể không hiểu ư nghĩa của kinh. Kinh có bốn loại, “giáo, lư, hành, quả”, văn tự, ngôn thuyết là Giáo, trong Giáo có Lư, tức là có đạo lư. Chẳng thể không hiểu rơ Lư, hiểu rơ là Giải. Quư vị đă hiểu rơ đạo lư ấy, sau khi liễu giải phải hành. Mười đại nguyện vương này đều được áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, sẽ thay đổi hết thảy tâm thái sai lầm của chúng ta. Điều thứ nhất, quư vị có thể nói ai chẳng ngạo mạn hay không? Ngạo mạn là phiền năo bẩm sanh, chẳng cần phải học! Một niệm bất giác, A Lại Da liền xuất hiện, tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở là hiện tượng tinh thần. Thức thứ tám, tức A Lại Da, là căn bản của mê hoặc, ba tế tướng từ A Lại Da biến hiện thành Mạt Na, Mạt Na là thức thứ bảy. Từ thức thứ bảy lại biến hiện thức thứ sáu, thức thứ sáu là ư thức. Thức thứ bảy có tên tiếng Phạn là Mạt Na (Manas-vijñāna), dịch sang nghĩa tiếng Hán là Nhiễm Ô Thức, [hàm ư] nó chẳng sạch sẽ, chấp trước. Bốn đại phiền năo thường đi theo Mạt Na, chúng có từ lúc mới sanh ra. Bốn đại phiền năo, thứ nhất là Ngă Kiến, chính là chấp trước có Ngă, c̣n chưa có thân, chưa phải là chấp trước thân, mà là chấp trước có Ngă. Do có Ngă nên mới đi t́m thân thể, t́m thân thể để đầu thai, t́m thân thể trong lục đạo. Ngoài Ngă Kiến có Ngă Ái, Ngă Ái là là tham, Ngă Mạn, quư vị thấy [Ngă Mạn] là ngạo mạn, Ngă Mạn là sân khuể, Ngă Si. Tham, sân, si là Tam Độc phiền năo. Khi nào sẽ có? Một niệm bất giác bèn có. Tuy có, chẳng nghiêm trọng như hiện thời. Hiện nay, chúng ta tham, sân, si quá nghiêm trọng, cảm vời khá nhiều tai nạn xuất hiện. Do v́ chẳng chuyển thức thành trí, vẫn dùng tám thức, chúng ta biết Phật, Bồ Tát trong bốn thánh pháp giới vẫn dùng tám thức. Đă dùng tám thức th́ chúng ta biết Ngă Kiến, Ngă Ái, Ngă Mạn, Ngă Si đương nhiên vẫn c̣n, nhưng rất nhẹ nhàng, rất vi tế. Trong bốn thánh pháp giới hăy c̣n [bốn đại phiền năo ấy]; trong lục đạo th́ thô tháp, nặng nề, chúng biến thành Kiến Tư phiền năo. Trong kinh Phật đă nói rất cặn kẽ, trong tam giới có tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc và tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc, chúng do những thứ ấy (Ngă Kiến, Ngă Ái, Ngă Mạn, Ngă Si) biến hiện ra.

      Do vậy, chúng ta phải thừa nhận, chưa thể chuyển tám thức thành bốn trí th́ Ngă Mạn hăy c̣n, chẳng dễ đoạn. Pháp Thân Bồ Tát đă đoạn, tuy đă đoạn nhưng vẫn c̣n có tập khí, khi học kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đă thảo luận chuyện này rất nhiều. Kinh điển cho biết, muốn đoạn hoàn toàn tập khí, phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ (Asamkhya) là đại kiếp, ba A-tăng-kỳ, A-tăng-kỳ là con số rất lớn, phải trải qua thời gian dài ngần ấy, tập khí mới chẳng c̣n. Tập khí chẳng có, chúng ta biết cơi Thật Báo sẽ chẳng có. Cơi Thật Báo do tập khí biến ra. Thật vậy, chưa đoạn vô minh, hễ c̣n có một phẩm vô minh chưa đoạn th́ vẫn ở trong mười pháp giới, chẳng ở trong cơi Thật Báo. Phải đoạn hết một phẩm vô minh ấy, thật sự đoạn th́ mới có thể vượt thoát mười pháp giới, trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Cơi Thật Báo của chư Phật Như Lai cũng là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chính ḿnh. Trong cảnh giới ấy, tự - tha bất nhị, khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước đều chẳng có, ở đây, chúng ta cũng gọi nó là Nhất Chân pháp giới, nó là thật, mười pháp giới là giả, lục đạo lại càng chẳng cần phải nói nữa! Chúng ta phải thường huân tập những kinh giáo ấy, phải đọc tụng, phải nghe giảng, phải hiểu nghĩa, phải thường tư duy. Tư duy là tác quán, biến nó thành một thứ vũ trụ quan và nhân sinh quan của chúng ta. Đó là vũ trụ quan và nhân sinh quan chánh xác nhất, chẳng có mảy may sai lầm. Đối với vũ trụ quan và nhân sinh quan của chư Phật Như Lai, chúng ta cũng có thể nhập cảnh giới ấy, đó là “thật sự tu hành”. Thường tác quán như thế, nói thật ra, phép quán ấy chính là sáu hạng mục trong Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ đại sư, tức là “hiển nhất thể, khởi nhị dụng, thị tam biến” (hiển lộ một thể, khởi hai tác dụng, phô bày ba thứ trọn khắp), sau đó là “tứ đức, ngũ chỉ, lục quán”.    

      Người ấy “lâm mạng chung thời, tối hậu sát-na” (lúc lâm chung, trong sát-na cuối cùng), “tối hậu” là lúc tắt hơi, đă hết thở, thần thức ly khai thân thể, khi ấy “nhất thiết chư căn tất giai tán hoại” (hết thảy các căn thảy đều hư hoại), đó là ǵ? Nơi thân thể, sáu căn chẳng khởi tác dụng, mắt không thể thấy, tai chẳng thể nghe. “Nhất thiết chư căn” là sáu căn, sáu căn mất tác dụng. V́ sao? Thức đă rời khỏi, trong tâm quư vị, A Lại Da đă rời khỏi, Mạt Na đă rời khỏi, ư thức đă rời khỏi, năm thức trước cũng đă rời khỏi thân thể này! Thức có tồn tại hay không? Tồn tại, nó rời khỏi [thân thể], nhưng nó tồn tại, thế tục chúng ta gọi nó là “linh hồn”, linh hồn rời khỏi thân thể. Khi con người chưa chết, linh hồn có thể rời khỏi thân thể hay không? Đôi khi cũng có, [hiện tượng ấy được] gọi là “linh hồn xuất khiếu”. Thân thể người ấy chưa hoại, c̣n hít thở, nhưng linh hồn tạm thời rời khỏi thân thể trong một khoảng thời gian ngắn, sẽ khởi lên tác dụng có năng lực lớn hơn b́nh thường. Ĺa khỏi thân thể giống như lơ lửng trong không trung, người ấy có thể trông thấy thân thể của chính ḿnh, và cũng có thể thấy động tác của hết thảy mọi người chung quanh. Như vậy là linh hồn có thể rời khỏi thân thể. Chúng ta nằm mộng, mộng là linh hồn đang khởi tác dụng, chẳng phải là thân thể, mà là linh hồn đang khởi tác dụng.

      Nói tới linh hồn th́ cũng có sự hiểu lầm, hồn có, nhưng nó quyết định chẳng linh! Nói là hồn th́ được, chứ nó chẳng linh. V́ vậy, Khổng Tử chẳng nói linh hồn, mà gọi là “du hồn”. Quư vị đọc kinh Dịch: “Tinh khí vi vật, du hồn vi biến”[1], dùng “du hồn” để nói rất hay, chẳng phải Khổng lăo phu tử không biết. V́ tốc độ hoạt động của hồn rất nhanh, nó hết sức không ổn định, giống như ư niệm của chúng ta, niệm trước diệt, niệm sau sanh, niệm này tiếp nối niệm kia, ở trong trạng thái ấy, nên gọi “du hồn” là chánh xác. Nó chẳng thông minh, nếu thật sự linh th́ làm sao có thể vào trong ba ác đạo đầu thai? Chẳng có đạo lư ấy! Vào trong ba ác đạo đầu thai, vẫn chưa phải là mê hoặc, điên đảo mà vào, lầm tưởng là cảnh giới tốt đẹp, sau khi đến đó bèn bị lừa, chẳng thoát ra được, t́nh h́nh nói chung là như vậy. Chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi, lục đạo là giới hạn. Tu hành tốt đẹp, có thể sanh lên thiên đạo, có thể đạt đến Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, Vô Sắc Giới Thiên, nhưng chẳng thoát ĺa lục đạo. Tu hành đến một mức công phu nhất định, thật sự có một chút giác ngộ, chưa phải là đại triệt đại ngộ, thật sự có giác ngộ trong Phật pháp, bèn thoát ly lục đạo. Đă thoát ly lục đạo th́ chúng ta sẽ không gọi nó là linh hồn nữa, mà thường gọi là “linh tánh”. Cách gọi này cũng chánh xác, v́ linh tánh là chính ḿnh chân thật. Linh tánh như chúng ta thường nói ấy thuộc về bốn pháp giới, chẳng thuộc trong lục đạo. Ở đây, [sách Chú Giải] cho biết, người sắp mất, trong một sát-na, sát-na ấy là lúc vô cùng mấu chốt, nên lâm chung trợ niệm hết sức có lư!

      Sáu căn đă hư hoại, chẳng khởi tác dụng, “nhất thiết thân thuộc tất giai xả ly” (hết thảy thân thuộc thảy đều ĺa bỏ). Người nhà quyến thuộc chia tay quư vị, cũng là duyên phận cùng nhau tụ hợp của quư vị đă hết, sau này c̣n có thể tiếp tục hay không? Điều ấy phụ thuộc duyên phận, có lúc duyên phận vào lúc ấy đă hết. Do vậy, con người phải giác ngộ, đức Phật đă giảng rất hay về mối quan hệ giữa con người với nhau, gồm bốn thứ duyên: Báo ân, báo oán, đ̣i nợ, trả nợ, đều có lúc kết thúc. Duyên ấy chẳng c̣n, dẫu gặp gỡ cũng chẳng nhận ra. Do vậy, nó chẳng thật, là giả. Chúng ta đến thế gian này, quan hệ với mọi người là bốn thứ duyên phận ấy. Sau khi học Phật, đă hiểu rơ, giác ngộ, phải chuyển biến bốn thứ duyên ấy thành pháp duyên, sẽ là tốt đẹp. Chuyển biến thành pháp duyên, đó là tự độ, độ người. Trong tương lai, quư vị thành Phật, những người hữu duyên ấy bất luận ở chỗ nào, tụ tán trong khắp pháp giới, hư không giới, họ gặp khổ nạn, khẩn cầu, quư vị sẽ tiếp nhận được làn sóng [ư niệm] ấy, họ có duyên với quư vị mà! Sau khi quư vị nhận được, chắc chắn sẽ lập tức ứng, cảm ứng đạo giao. Chúng sanh có cảm, Bồ Tát bèn ứng, quư vị sẽ đến giúp họ.

      Đối với cảm ứng, kinh Phật đă giảng rất rơ ràng, có bốn h́nh thái khác nhau, hiển cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng, hiển cảm minh ứng, minh cảm hiển ứng (cảm và ứng rơ rệt; cảm và ứng ngấm ngầm; cảm rơ rệt, ứng ngấm ngầm và cảm ngấm ngầm, ứng rơ rệt), bốn thứ h́nh thái bất đồng. Trong đời quá khứ, chúng ta đời đời kiếp kiếp kết nhiều duyên với chư Phật, Bồ Tát. Khi chúng ta gặp khó khăn, tâm và miệng cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ, cầu Phật, Bồ Tát phù hộ, Phật, Bồ Tát có gia tŕ quư vị hay không? Gia tŕ! Có khi gia tŕ, nhưng ta chẳng cảm nhận được, đó là âm thầm gia tŕ quư vị. Quư vị là Hiển [Cảm], v́ cầu Phật, Bồ Tát, Phật rơ rệt, Bồ Tát âm thầm phù hộ quư vị, [đó là Minh Ứng]. Học Phật, đối với giáo lư đă đạt đến tŕnh độ nhất định, tức là tŕnh độ lư giải, quư vị sẽ có thể tin tưởng. Thuở đầu, học rất khó, lúc mới học, hiển ứng th́ biết, chứ minh ứng (ứng âm thầm) kẻ ấy chẳng biết, bảo là chẳng linh. Tuyệt đối chẳng phải là không linh! V́ sao Bồ Tát ứng mà chẳng hoàn toàn hiển ứng, lại c̣n có minh ứng? Chúng ta phải hiểu điều này! Chư Phật, Bồ Tát ứng, nhưng chẳng khởi tâm, động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước; nếu khởi tâm động niệm sẽ biến thành phàm phu. Các Ngài chẳng thoái chuyển, vĩnh viễn trụ trong Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang ở chỗ nào? Không chỗ nào chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng hiện diện, nên cảm ứng đạo giao ngay lập tức. Phật, Bồ Tát hiển ứng hay minh ứng (ứng ngấm ngầm), đều do ư niệm và tâm thái của chúng ta [cảm vời]. Kinh giảng rất hay, “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm của chúng sanh mà ứng với khả năng lănh hội của họ), chẳng do ư nghĩ của Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát chẳng có ư nghĩ ǵ.

      Ở đây, đối với câu “nhất thiết thân thuộc tất giai xả ly” (hết thảy thân thuộc đều phải ĺa bỏ) chúng ta phải giác ngộ đoạn kinh văn này, “thân thuộc” là người đă kết duyên với ta trong quá khứ. Sau khi học Phật, phải dùng phương pháp trí huệ để biến họ thành pháp quyến, đó là đúng. Nếu t́nh chấp rất sâu, nhất định sẽ nẩy sanh chướng ngại đối với sự tu hành của chúng ta. Không chỉ chướng ngại quư vị chứng quả, mà c̣n chướng ngại quư vị văng sanh, ngay cả nghĩa lư của kinh giáo cũng bị nó chướng ngại. Bị nó chướng ngại điều ǵ? Quư vị hiểu sai, chẳng phải là nghĩa chân thật của Như Lai. Nghĩa chân thật của Như Lai là Tánh Đức, Tánh Đức từ trong tự tánh tự nhiên lưu lộ. Quư vị vừa khởi tâm động niệm, nó đă bị lệch lạc rồi. Do vậy, đối với thân thuộc, có cần phải làm ra vẻ thân ái như thế hay không? Phải! V́ sao? Nhằm giáo hóa chúng sanh ngu muội, dạy cho họ luân lư, đạo đức, khiến cho họ được sống trong một xă hội trật tự, ban cho họ cuộc sống hạnh phúc mỹ măn trên thế gian này, ban cho họ điều ấy. Phật, Bồ Tát phải làm như thế cho họ thấy, nêu gương hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ; đấy là một cơ sở của ḥa hài, ổn định, hỗ trợ hợp tác, đức hạnh trên thế gian. Để dạy loại chúng sanh ấy, Phật, Bồ Tát ắt phải làm như vậy, phải biểu diễn, thực hiện. Nếu có cảm t́nh thật sự sẽ là phàm phu. Bồ Tát biểu diễn giống như đang diễn xuất trên sân khấu, biểu diễn vô cùng giống như thật, quư vị chẳng nh́n thấy sơ sót nào, người rất sáng mắt mới có thể thấy rơ ràng, kẻ b́nh phàm chẳng thể thấy rơ! Ngài biểu diễn hết sức giống như thật th́ mới có thể cảm hóa chúng sanh, mới có thể dạy họ trung, hiếu, liêm, sỉ, mới có thể dạy dỗ chúng sanh, ư nghĩa là như thế đó. Trên thực tế th́ sao? Trên thực tế, tâm các Ngài vĩnh viễn “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” như trong kinh đă nói, chúng ta phải biết điều này. Nếu biết th́ chúng ta sẽ biết học, “học” là tu học, chúng ta mới có thể học giống hệt. Về mặt Sự, sẽ giống như lục đạo phàm phu; về Lư, bèn như Nhất Chân pháp giới, cả hai phía đều giống, đó là chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế gian. Quư vị thấy điều đầu tiên mà người thế gian khó bỏ nhất là thân t́nh, nên đặt điều này lên đầu.

      Lại xem điều kế tiếp, “nhất thiết oai thế tất giai thoái thất” (hết thảy oai thế thảy đều lui mất). Trên thế gian, quư vị có thế lực, “oai” () là quyền lực. Quư vị có quyền, có thế, làm một vị quan to. Lúc mất, chẳng mang theo được ǵ. Chẳng thể mang theo tước vị, quyền lực, oai thế được! Điều này cho quư vị biết chúng là giả, thân t́nh là giả, mà oai thế cũng giả trất. “Phụ tướng đại thần, cung thành nội ngoại, tượng mă xa thặng, trân bảo phục tạng” (Phụ tướng, đại thần, cung thành trong ngoài, xe voi, xe ngựa, kho tàng quư báu), quư vị là đế vương, dưới tay có Tể Tướng, đại thần, có cung điện, có Tử Cấm Thành[2], hưởng thụ phước báo trên thế gian. Xe voi, xe ngựa là phương tiện giao thông của quư vị, “trân bảo phục tạng” (kho tàng quư báu) là những thứ quư báu do quư vị cất giữ. “Như thị nhất thiết, vô phục tương tùy” (hết thảy những thứ như thế chẳng c̣n theo ta nữa), chẳng mang theo được ǵ. Câu này bảo chúng ta phải thật sự giác ngộ, thật sự minh bạch, phải nên hiểu rơ: Đối với cái có thể mang theo được th́ dụng tâm, cái ǵ không mang theo được, chớ nên bận ḷng về nó; hễ quan tâm đến nó là sai mất rồi. Dụng tâm sai lầm, thứ ǵ cũng chẳng mang theo được! Cổ nhân dạy con cái như thế nào? Tích công lũy đức cho con cháu, hết thảy của cải trên thế gian chẳng cần để lại cho chúng nó, con cháu của họ là con cháu tốt lành. V́ sao? Họ biết tu phước, tương lai tiền đồ vô lượng. Tổ tông có đức, tự ḿnh biết tu phước, đức hạnh của tổ tông sẽ phù trợ con cháu, đó là đúng! Để lại của cải cho chúng nó, nếu là hạng con cháu bất hiếu, sẽ bại hoại dễ dàng. Chúng nó do có được quá dễ dàng, sẽ chẳng biết quư trọng, coi thường, nên bị bại hoại. Những gương xưa nay trong ngoài nước giống như vậy rất nhiều, lịch sử đă ghi chép, tin tức rất phong phú, nhất định phải giác ngộ, những thứ ấy chẳng thể mang theo được!

      “Duy thử nguyện vương, bất tương xả ly” (chỉ có nguyện vương này là chẳng ĺa bỏ), đây là thứ quư vị mang theo được, mang theo được mười nguyện, quư vị có thể mang thứ này theo được! Mười nguyện này là Tánh Đức vốn có trong tự tánh; do mê mất tự tánh, nên coi thường, bỏ sót, tư tưởng và tâm hạnh đều trái phạm Tánh Đức. Chúng ta biết lỗi, nay phải t́m lại Tánh Đức; đă làm sai th́ phải “quay đầu là bờ”. Tiếp đó, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “thường tùy Phật học”, câu này trọng yếu. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời v́ chúng ta thị hiện điều ǵ? Lăo nhân gia thị hiện “quay đầu là bờ”, tích lũy công khôn sánh, tích lũy đức to khôn sánh, giúp hết thảy chúng sanh khổ nạn, khiến cho hết thảy chúng sanh khổ nạn ĺa khổ, được vui. Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng cho tiền chúng sanh, cũng chẳng cho họ vật dụng cần thiết. Thích Ca Mâu Ni Phật cho chúng sanh điều ǵ? Giúp chúng sanh giác ngộ, đó là thật, chẳng giả! Dùng phương pháp ǵ? Dùng giáo học, nêu gương, thân làm, miệng dạy. Đích thân làm cho quư vị thấy, miệng nói cho quư vị nghe, khiến cho quư vị hiểu rơ, giác ngộ. V́ sao? Vô lượng vô biên nỗi khổ đều do mê sanh ra. Do đă mê rồi nên quư vị nghĩ trật, nh́n lầm, nói sai, làm quấy, quả báo làm sao tốt đẹp cho được? Quả báo là lục đạo luân hồi. Chỉ có thật sự giác ngộ, thật sự hiểu rơ, vũ trụ là như thế nào, nhân sinh ra sao, ta từ đâu đến, tương lai sẽ đi về đâu, hiểu rơ toàn bộ, kẻ ấy tự tại, chẳng mê nữa. Kẻ ấy chẳng mê, nên chẳng nghĩ trật, chẳng nói sai, chẳng làm quấy, hằng ngày tích lũy công đức, hằng ngày tích lũy phước đức, phước huệ song tu th́ mới có thể giải quyết vấn đề.

      Thích Ca Mâu Ni Phật giúp con người giải quyết vấn đề từ căn bản, chẳng phải là cành nhánh. Dẫu nói đến “cầu”, trong phần trước, tôi đă nói rất nhiều, trong các buổi giảng, [chúng tôi thường nói] chúng ta muốn cầu của cải, cầu thông minh trí huệ, cầu khỏe mạnh, sống lâu, đức Phật đă dạy quư vị phương pháp, chỉ cần quư vị nương theo lư luận và phương pháp mà Ngài đă dạy để thực hiện, chắc chắn sẽ đạt được! “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng), chẳng phải là không cầu được. Pháp thế gian và xuất thế gian không ǵ chẳng cầu được, thật đấy, chẳng thể nghĩ bàn! Cầu như thế đắc đại tự tại, trong tâm cũng chẳng có chút gánh nặng nào, chẳng phải bận ḷng. Cầu tài, của cải sẽ cuồn cuộn đưa tới, nhưng phải có trí huệ; nếu chẳng có trí huệ, dấy tâm tham tài, của cải chẳng phải là thứ tốt đẹp, mang lại tội nghiệp cho quư vị, như vậy là sai mất rồi. V́ vậy, Phật pháp từ đầu tới cuối luôn đặt trí huệ vào vị trí thứ nhất. Có trí, lẽ đâu chẳng có của cải? Có của cải, chưa chắc đă có trí huệ. Có trí huệ, nhất định có của cải. Do đó, quư vị chú tâm quan sát, trong thế gian và xuất thế gian, chỉ có ḷng từ bi của Phật là chân thật. Nương theo mười nguyện này tu tập, suốt đời chúng ta không ǵ chẳng được như nguyện, hưởng thụ quả báo chân thật của chính ḿnh.

      Nguyện vương này, “ư nhất thiết thời dẫn đạo kỳ tiền, nhất sát-na trung tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới” (trong hết thảy thời, nó dẫn đường đằng trước, trong một sát-na liền được văng sanh thế giới Cực Lạc), nếu mười nguyện trọn đủ, sanh về cơi Thật Báo Trang Nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Đáo dĩ, tức kiến A Di Đà Phật” (đă đến, liền thấy A Di Đà Phật), thấy Báo Thân Phật, chẳng phải là cơi Hữu Dư, chẳng ở trong Đồng Cư, mà ở trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, thấy Báo Thân Phật. “Kỳ nhân tự kiến sanh liên hoa trung, mông Phật thọ kư” (người ấy tự thấy sanh trong hoa sen, được Phật thọ kư), quư vị nói xem có vui sướng lắm hay không? Cũng giống như nói “đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, gặp mặt A Di Đà Phật bèn thành Phật”, Phật thọ kư cho người ấy. “Đắc thọ kư dĩ” (đă được thọ kư), thọ kư bèn thành Phật, “kinh ư vô số bách thiên vạn ức na-do-tha kiếp” (trải qua vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha[3] kiếp), đó là nói tới thời gian, “phổ ư thập phương bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới” (khắp trong bất khả thuyết bất khả thuyết[4] thế giới), nói tới nơi chốn. “Dĩ trí huệ lực, tùy chúng sanh tâm nhi vi lợi ích” (dùng sức trí huệ thuận theo tâm chúng sanh để tạo lợi ích), tạo lợi ích ứng với khả năng tiếp nhận [của chúng sanh], quư vị đến mười phương thế giới giáo hóa chúng sanh. Giáo hóa chúng sanh giống như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, nên dùng thân Phật để độ được, bèn hiện thân Phật, nên dùng thân Bồ Tát để độ được, bèn hiện thân Bồ Tát. Thuận theo tâm chúng sanh mà hiện tướng, hiện các thứ tướng bất đồng, có thể đồng thời hiện vô lượng vô biên thân trong các nơi chốn khác nhau. Phật, Bồ Tát ứng hóa nhất định hoàn toàn tương ứng với căn tánh của chúng sanh, tự nhiên tương ứng. Tánh Đức có năng lượng to lớn như vậy, pháp được nói sẽ tự nhiên tương ứng; chúng sanh vừa tiếp xúc, vừa nghe nói bèn khai ngộ. Chưa có năng lực như vậy, làm sao có thể độ chúng sanh? V́ vậy, tu mười đại nguyện vương văng sanh Cực Lạc thế giới, thấy A Di Đà Phật, trí huệ, đức năng, và tướng hảo trong tự tánh đều khôi phục, đúng là con đường tắt để Bồ Tát thành Phật.

      “Năng ư phiền năo đại khổ hải, bạt tế chúng sanh, linh kỳ xuất ly, giai đắc văng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới” (có thể ở trong biển cả khổ sở, phiền năo, cứu vớt chúng sanh, khiến cho họ thoát khỏi, đều được văng sanh thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật). Cứu khổ cứu nạn phải cứu đến cùng, không thể chỉ cứu nửa vời, đưa những người ấy đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, ai nấy đều viên măn. Lư luận và phương pháp đưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới đều nằm trong bộ kinh này, chúng ta chớ nên quên mất bộ kinh này, hăy luôn nhớ câu kinh văn đầu tiên “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (đều cùng tuân tu đức của Phổ Hiền đại sĩ), câu này quá trọng yếu! Do vậy, trong niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh trước kia, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm đă soạn bản hội tập cho kinh Vô Lượng Thọ, và chính ông ta cũng đem quyển kinh Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm này ghép vào sau Tịnh Độ tam kinh, gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh. Trong tương lai, chư vị đồng tu thấy Tịnh Độ Tứ Kinh liền biết Tứ Kinh là ǵ, chính là do Ngụy Mặc Thâm thêm phẩm Hạnh Nguyện vào đó. Hợp lư! “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức”, thật sự có lư. Đến đầu thời Dân Quốc, Ấn Quang đại sư là một vị tổ sư trong thời cận đại của Tịnh Độ Tông, lăo nhân gia đem chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, chương này không dài, chỉ có hai trăm bốn mươi bốn chữ, c̣n ngắn hơn Bát Nhă Tâm Kinh. Bát Nhă Tâm Kinh là hai trăm sáu mươi chữ, [c̣n chương Đại Thế Chí Viên Thông là] hai trăm bốn mươi bốn chữ, ghép vào sau Tịnh Độ Tứ Kinh, nay gọi là Tịnh Độ Ngũ Kinh. Cần biết rằng: Tịnh Độ vốn chỉ có ba kinh, bản thứ tư là do cư sĩ Ngụy Mặc Thâm thêm vào, bản thứ năm do Ấn Quang đại sư thêm vào. Chúng ta nghĩ xem c̣n có thể thêm vào hay không? Không thể tăng thêm, đă viên măn, quư vị có muốn tăng thêm cũng không được, đă viên măn rồi. Trong chín ngàn năm của thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ khế hợp căn cơ của hết thảy chúng sanh, năm bộ kinh này có thể phổ độ hết thảy chúng sanh, giúp mọi người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thọ tŕ hoàn toàn năm bộ rất tốt; thật ra, cả năm bộ đều chẳng dài. Trong kinh luận Tịnh Tông, dài nhất là bộ kinh Vô Lượng Thọ này, c̣n như Đại Thế Chí Viên Thông Chương chỉ có hai trăm bốn mươi bốn chữ, cũng là một bộ, rất thích hợp với căn tánh của người thời Mạt Pháp. Nếu nói theo kiểu Trung Quốc, kinh luận Tịnh Tông quả thật là “giản yếu tường minh”, tức là đơn giản, ngắn gọn, mà cũng tỉ mỉ, rơ ràng, thích hợp nhất cho đại chúng trong hiện tại và mai sau tu học.

      “Hựu kỳ trung đệ thập nguyện phổ giai hồi hướng, hiển Phổ” (lại nữa, trong ấy, nguyện thứ mười là hồi hướng khắp cả, hiển thị ư nghĩa chữ Phổ), hiển lộ chữ Phổ, “tùng sơ (đệ nhất nguyện) lễ kính năi chí đệ cửu nguyện hằng thuận chúng sanh” (từ ban đầu (nguyện thứ nhất) là lễ kính cho đến nguyện thứ chín là hằng thuận chúng sanh), đều nhằm hiển thị chữ Hiền trong đức hiệu của Phổ Hiền Bồ Tát. “Cố tri thập chủng đại nguyện, hiển Phổ Hiền nghĩa. Hiền tắc thụ cùng tam tế, Phổ tắc viên nhiếp vô dư” (nên biết mười đại nguyện hiển thị ư nghĩa Phổ Hiền. Hiền là theo chiều dọc rốt ráo ba đời, Phổ là nhiếp trọn vẹn, chẳng sót), chúng ta nói là “theo chiều ngang trọn khắp mười phương”. Hiền là nói thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai; Phổ là nói mười phương, tức bốn phương, bốn góc, trên dưới, bao quát toàn bộ. “Thanh Lương Sớ vân, quả vô bất cùng viết Phổ, bất xả nhân môn viết Hiền. Chánh hiển kinh trung Phổ Hiền, tức Vị Hậu Phổ Hiền” (Thanh Lương Sớ giảng: “Quả không ǵ chẳng cùng tột là Phổ, chẳng xả hạnh tu nhân là Hiền. Điều này chỉ rơ Phổ Hiền trong kinh chính là Vị Hậu Phổ Hiền”), hai câu này giải thích rốt ráo [ư nghĩa của danh hiệu] Phổ Hiền. Quả không ǵ chẳng cùng tột, Cùng () là đă đạt đến tột bậc, chúng ta nói là “rốt ráo viên măn”, đó là ǵ? Hoàn Nguyên Quán giảng “một Thể, hai tác dụng, ba thứ trọn khắp”, là quả không ǵ cùng tột. Khó có nhất là chẳng bỏ Nhân môn, Nhân môn là ǵ? Tứ Đức, Ngũ Chỉ, Lục Quán là những Nhân môn được nói trong Hoàn Nguyên Quán. Đă thành Phật, đă chứng địa vị Diệu Giác từ lâu, vẫn đến thị hiện trong nhân gian, thị hiện ǵ? Nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp, thị hiện làm kẻ sơ học, thị hiện làm Tiểu Thừa. Chúng sanh thuộc căn tánh ǵ, bèn thị hiện thuận theo căn tánh của chúng sanh th́ mới có thể tiếp dẫn hết thảy chúng sanh, mới có thể thỏa măn nhu cầu của chúng sanh có căn tánh bất đồng. Chư Phật Như Lai chẳng có mảy may ư nghĩ của riêng ḿnh, đó là “hằng thuận chúng sanh”. Hễ có một tí ư nghĩ của riêng ḿnh sẽ chẳng hằng thuận. Hằng thuận là trí huệ chân thật, thiện xảo phương tiện, thần thông, đạo lực vô tận, nhưng phàm phu không biết. Điều này chỉ rơ Phổ Hiền được nói trong kinh, tức là vị Bồ Tát được nhắc đến trong kinh này, cũng như Phổ Hiền được nói trong kinh Hoa Nghiêm đều thuộc địa vị ǵ? Là Vị Hậu Phổ Hiền, tức là đă thành Phật, thuộc địa vị Diệu Giác. Chứng đắc địa vị Diệu Giác, nhưng Ngài lui xuống địa vị Bồ Tát để giúp đỡ chúng sanh, v́ sao? Phật pháp là sư đạo, chúng ta phải biết điều này. Thầy cao vời vợi bên trên, học tṛ mang ḷng kính sợ thầy, vừa kính trọng vừa sợ hăi, nên dạy lũ học tṛ chẳng thuận tiện cho lắm, vậy th́ thầy làm sao? Thầy thay đổi thân phận, mang thân phận bạn học. Thân phận bạn học thuận tiện hơn nhiều, nói sao cũng dám nói, nên dễ dạy. V́ thế, Phật dạy chúng sanh chẳng dùng đến thân phận Phật, lui xuống làm thân phận Bồ Tát, đó là Vị Hậu Phổ Hiền.

      “Diệc tức Thiện Đạo đại sư sở vị, tùng quả hướng nhân chi tướng” (cũng chính là “tướng từ quả hướng về nhân” như Thiện Đạo đại sư đă nói). Ngài vốn đă chứng quả, nay trở về nhân địa, quả là Phật, nhân là Bồ Tát, dùng thân phận Bồ Tát để ứng hóa trên thế gian. Bồ Tát như thế nào? Thưa quư vị, quá nửa đều là Thập Tín Vị Bồ Tát, địa vị không cao. Thập Tín rất gần chúng ta, nội dung giảng dạy cũng là nội dung rất gần gũi, dễ hiểu, chúng ta có thể tiếp nhận, nghe hiểu, mà cũng thật sự có thể làm được. Đó là một vị thầy giỏi. Trong thời đại hiện tại, thánh giáo suy vi, đại chúng b́nh phàm, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp đều chẳng học [thánh giáo]. Nếu quư vị lấy sách vở Đại Thừa quá sâu để dạy họ, về căn bản là họ nghe không hiểu. Dẫu có hiểu, cũng hoàn toàn chẳng ăn khớp với cuộc sống của họ, họ chẳng dùng được! Điều đó có nghĩa là ǵ? Kinh giáo chẳng khế cơ! Tuy khế lư, [tức là] nói theo Lư chẳng sai, nhưng chẳng đúng với căn cơ của chúng sanh. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm là tài liệu dạy học cho nghiên cứu sinh, chúng sanh hiện thời là căn cơ ǵ? Căn cơ Tiểu Học. Quư vị lấy tài liệu học tập của nghiên cứu sinh để dạy Tiểu Học, làm sao họ có thể tiếp nhận cho được? Đó gọi là khế lư, chẳng khế cơ. Đối với những tài liệu để giảng dạy trong các trường học hiện thời, người trẻ tuổi học tập rất nhiều thứ, Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, quư vị thấy trong ấy dạy những ǵ? Người học đông đảo như thế, nhưng nói theo Phật pháp, những tài liệu giảng dạy ấy khế cơ mà chẳng khế lư, hoàn toàn chẳng ăn khớp với giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả. Học tṛ có thể học được một ít công nghệ, có thể kiếm sống trong xă hội, nhưng chẳng biết làm người! Giáo dục làm người họ chưa được học, c̣n giáo dục để làm việc họ học chẳng ít. Chúng ta sống trong thời đại này, gặp gỡ căn tánh như vậy, phải hiểu rơ. Sau khi hiểu rơ mới biết dùng phương pháp ǵ để giúp họ vừa khế cơ vừa khế lư.

      Do vậy, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện trong thời đại này chẳng phải là ngẫu nhiên, cụ hội tập kinh Vô Lượng Thọ một lần nữa, chỉnh lư thành bản hoàn thiện, bản hoàn thiện ấy do hội tập năm bản dịch gốc hợp thành. Trong quá khứ cũng có người làm, nhưng thành quả có khuyết điểm, chẳng viên măn. Đầu tiên là cư sĩ Vương Long Thư đời Tống hội tập, lần thứ hai do ông Ngụy Mặc Thâm hội tập trong niên hiệu Hàm Phong đời Thanh, lần thứ ba do Hạ lăo cư sĩ hội tập vào đầu thời Dân Quốc. Họ đều chẳng phải là người b́nh phàm, mà toàn là hàng Bồ Tát đầy bản lănh, thị hiện cho chúng ta thấy. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ ban cho chúng ta bản chú giải này, dụng ư rất ư là sâu, v́ sao? Thời Mạt Pháp hăy c̣n chín ngàn năm nữa, trong chín ngàn năm ấy, Tịnh Độ là đương cơ, trong chín ngàn năm ấy cần đến Phật pháp th́ cần loại Phật pháp nào? Cần bộ kinh này, cần pháp của Vô Lượng Thọ Phật. Chúng tôi cũng hiểu rơ chân tướng sự thật này; v́ thế, lần này chúng tôi chọn giảng bản chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ để mọi người cùng nhau học tập. Chúng tôi nhắm đến mục đích hy vọng những thứ này (bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ và bản chú giải của cụ Hoàng) có thể lưu truyền hậu thế, dành cho người đời sau tham khảo, giúp họ học tập, giúp họ kiến lập tín tâm, nguyện lực, y giáo phụng hành, văng sanh Tịnh Độ, mục đích ở chỗ này.

      Tiếp đó, “hựu Phổ Hiền kệ vân” (lại nữa, bài kệ của Phổ Hiền có nói), trong bài kệ của Phổ Hiền Bồ Tát: “Ngă kư văng sanh bỉ quốc dĩ, hiện tiền thành tựu thử đại nguyện. Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sanh, tốc văng Vô Lượng Quang Phật sát” (Tôi đă văng sanh cơi ấy rồi, hiện tiền thành tựu đại nguyện này, nguyện khắp chúng sanh đang ch́m đắm, mau sanh cơi Phật Vô Lượng Quang). Bài kệ này “thị tức Phổ Hiền tự ngôn”, [tức là] do Phổ Hiền Bồ Tát tự nói, “ngă kư văng sanh Cực Lạc quốc dĩ, thành tựu sở phát chi thập chủng đại nguyện” (ta đă văng sanh cơi Cực Lạc, thành tựu mười thứ đại nguyện đă phát), nói cách khác, viên măn mười thứ đại nguyện, thế giới Cực Lạc hiện tiền. V́ sao? Thế giới Cực Lạc do mười thứ đại nguyện ấy kiến lập. Trong khi tu nhân, A Di Đà Phật đă phát bốn mươi tám nguyện, quư vị đem so với mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, [sẽ thấy] hoàn toàn tương ứng. Nói cách khác, mười nguyện Phổ Hiền triển khai thành bốn mươi tám nguyện của Phật Di Đà, bốn mươi tám nguyện của Phật Di Đà cô đọng thành mười nguyện Phổ Hiền. V́ vậy, tu hành viên măn mười nguyện, thế giới Cực Lạc tự nhiên hiện tiền. Do nguyên nhân nào? Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, mười nguyện là nhân, thế giới Cực Lạc là quả. Nhân đă viên, quả đương nhiên sẽ trọn đủ, đạo lư là như thế đó. Điều khó có là hai câu kết thúc, “phổ nguyện trầm nịch chư chúng sanh, tốc văng Vô Lượng Quang Phật sát”, đó là hồi hướng. Sau đó lại có “năi dĩ thù thắng hạnh nguyện công đức, giai tất hồi hướng chúng sanh đồng sanh Cực Lạc” (dùng công đức thù thắng của hạnh nguyện để hồi hướng cho chúng sanh ắt đều cùng sanh về Cực Lạc). Bồ Tát thị hiện trên thế gian, thực hiện mười nguyện này, làm cho chúng ta thấy, với dụng ư ǵ? Dụng ư nhằm ảnh hưởng chúng sanh trong thế giới Sa Bà, khuyên họ hăy bắt chước. Thời thời khắc khắc nhắc nhở, thời thời khắc khắc khuyên dụ, hướng dẫn, mang ư nghĩa ấy. V́ Phổ Hiền Bồ Tát thành Phật đă lâu, đă sớm tu hành viên măn, Ngài thả chiếc bè Từ, đến thế gian này, ứng hóa có thân phận và kiến thức giống như chúng ta, làm cho chúng ta thấy Ngài chịu tu, Ngài đă tu thành công. Chúng ta sẽ lấy Ngài làm gương mẫu, làm điển h́nh, Ngài có thể tu thành công, ta nghĩ ta nhất định cũng có thể tu thành công. Từ bi đạt tới tột bậc! Học rồi, đức của Phổ Hiền sẽ từ trong tâm chính ḿnh lưu lộ, trong một đời chúng ta, từng chút thiện hạnh nhỏ nhặt đều chẳng v́ chính ḿnh, ta đều hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, nguyện hết thảy chúng sanh đồng sanh Cực Lạc. Đại nguyện ấy không chỉ tương ứng với Phổ Hiền, mà c̣n tương ứng viên măn với A Di Đà Phật, niệm niệm chẳng v́ chính ḿnh, chỉ có hết thảy chúng sanh.

      “Phổ giai hồi hướng, năi thành Phổ nghĩa” (“phổ giai hồi hướng” nhằm thành tựu nghĩa Phổ), ư nghĩa của chữ Phổ đă thành tựu. “Di Đà tứ thập bát nguyện, nhiếp nhất thiết chúng sanh, thị phổ giai hồi hướng chi bổn nguyên” (Bốn mươi tám nguyện của Phật Di Đà nhiếp thọ hết thảy chúng sanh là cội nguồn của phổ giai hồi hướng). Nói cách khác, phổ giai hồi hướng là bổn nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh đều chứng Phật quả rốt ráo viên măn của A Di Đà Phật. Ở đây, cụ Hoàng đă chỉ ra rất hay: Mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát đến cuối cùng là dùng phổ giai hồi hướng để viên măn, chính là bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật được viên măn. Do vậy, “Phổ Hiền thập đại nguyện vương, chánh thị Di Đà đại nguyện chi đệ tam thập ngũ nguyện chi quảng diễn” (mười đại nguyện vương của Phổ Hiền chính là sự mở rộng của nguyện thứ ba mươi lăm trong Di Đà đại nguyện). Nguyện thứ ba mươi lăm là “nhất sanh bổ xứ nguyện”, ở đây, lời nguyện đă được trích lục như sau: “Sanh ngă quốc giả, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn nguyện vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải, giáo hóa nhất thiết hữu t́nh giai phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo” (kẻ sanh về nước ta, rốt ráo ắt đạt tới địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ, ngoại trừ người nào do bổn nguyện v́ chúng sanh [mà khoan đạt đến địa vị ấy], mặc áo giáp hoằng thệ, giáo hóa hết thảy hữu t́nh đều cùng phát tín tâm, tu hạnh Bồ Đề, hành đạo Phổ Hiền). Ở đây, tôi không giảng đoạn kinh văn này, trong phẩm thứ sáu ở phần sau, chúng ta đọc đến đoạn kinh văn ấy sẽ lại giảng giải tường tận.

      “Do thị khả kiến, hội trung thánh chúng, đa thị tằng sanh Cực Lạc, phi hoằng thệ khải, du hóa thập phương, trợ Phật hoằng hóa” (do vậy, có thể thấy: Thánh chúng trong hội phần nhiều đă từng sanh về Cực Lạc, khoác áo giáp hoằng thệ, dạo khắp mười phương, giúp Phật hoằng dương, giáo hóa), mấy câu này nói hay quá! Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ kinh này tại Linh Sơn, bộ kinh này và kinh Pháp Hoa được giảng cùng một chỗ. Kinh Pháp Hoa giảng tại núi Linh Thứu, bộ kinh này cũng được giảng tại núi Linh Thứu, cùng một nơi, thính chúng cũng giống như trong kinh Pháp Hoa, đại tỳ-kheo chúng một vạn hai ngàn người cùng nhóm họp, khác hẳn các pháp hội khác! Trong các pháp hội khác, [kinh văn thường] chép là một ngàn hai trăm năm mươi người, bộ kinh này là một vạn hai ngàn người. Trong đại chúng, có rất nhiều vị đă từng văng sanh thế giới Cực Lạc, lại trở về. Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh ở nơi đây, các Ngài quay lại, v́ sao quay lại? Chính v́ nguyện thứ ba mươi lăm này, bổn nguyện của các Ngài là v́ chúng sanh. Đặc biệt có duyên phận với chúng sanh trong thế giới này, bản thân các Ngài chưa chứng đến Đẳng Giác, nhưng các Ngài quay lại giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn. Người như vậy rất nhiều, trong hàng xuất gia đă có, mà trong hàng tại gia lại càng nhiều. Tại gia độ chúng sanh càng thuận tiện hơn, biến thành người nhà, quyến thuộc, bằng hữu đến độ quư vị, giúp quư vị sanh khởi tín tâm đối với pháp môn Tịnh Tông, giúp quư vị hiểu rơ ư nghĩa trong kinh, y giáo tu hành, giúp quư vị hành Phổ Hiền đạo, tức là hành mười đại nguyện vương.

      Trong quá tŕnh thành lập Tịnh Tông Học Hội, lần trước chúng tôi đă thưa bày đại lược cùng quư vị, nhưng [bài viết tŕnh bày] duyên khởi của Tịnh Tông Học Hội được viết tại Thánh Hà Tây, Gia Châu (San Jose, California) của nước Mỹ, tại một thị trấn nhỏ tên là Khố Phách Đề Nặc (Cupertino). Lúc đó, tôi ở bên ấy, viết ra duyên khởi của Tịnh Tông Học Hội. Trong bài viết về duyên khởi, chúng tôi nêu ra năm khoa mục mà người tu Tịnh Độ nhất định phải nghiêm túc học tập, thực hiện. Năm khoa mục ấy là Tịnh Nghiệp Tam Phước, Lục Ḥa Kính, Giới - Định - Huệ Tam Học, Lục Ba La Mật, và Phổ Hiền Thập Nguyện, năm khoa mục như vậy. Thời gian trôi qua rất nhanh, đă hơn hai mươi năm rồi, có hiệu quả hay không? Dường như hiệu quả chẳng rơ rệt. Đồng học tại gia chẳng thể thực hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo, đồng học xuất gia chẳng thể thực hiện Sa Di Luật Nghi, như vậy là văng sanh sẽ có vấn đề. Chúng tôi cũng nghiêm túc phản tỉnh, v́ sao cổ nhân làm dễ dàng dường ấy, mà người hiện thời làm khó khăn dường ấy, làm không được, nguyên nhân ở chỗ nào? Chúng tôi cũng tốn không ít thời gian nghiên cứu vấn đề này, đă t́m được kết luận. Trong đời này, chúng ta chẳng vun bồi cội rễ giáo dục, cho nên chẳng làm được Thập Thiện Nghiệp. Do vậy, chúng tôi bèn nghĩ, trong giáo dục truyền thống Trung Quốc, căn bản giáo dục nào được vun bồi? Ba căn bản Nho, Thích, Đạo. Căn bản của Nho là ǵ? Luân lư, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức. Trong quá khứ, lớp tuổi nhi đồng hết sức nghiêm túc học tập những đức mục này. Không có văn tự, nhưng cha mẹ dạy bảo, bậc trưởng thượng trong nhà quư vị dạy dỗ, thân thích, bằng hữu dạy bảo, thậm chí người xa lạ chẳng quen biết, trông thấy quư vị phạm quy củ cũng đều chỉ trích, dạy dỗ, được dưỡng thành từ nhỏ. Trẻ nhỏ thấy nhiều, nghe nhiều, đúng là “tai nghe, mắt nhiễm, trở thành thói quen”, chính ḿnh làm chuyện quấy, bị kẻ khác chỉ trích, bèn tuân phục, cúi đầu, chẳng dám căi lại. Chúng tôi nghĩ đến vấn đề này, nghĩ sau khi nhà Măn Thanh vong quốc, xă hội loạn động bất an, măi cho đến hiện tại vẫn chẳng an định. Vun bồi căn bản giáo dục đều bị coi nhẹ, sơ sót, không chỉ chẳng nh́n thấy, mà cũng chẳng ai nói tới, điều này rất đáng sợ!

      Do vậy, trong lúc nhiều người đang nói tới văn hóa truyền thống của Trung Quốc, chúng tôi mới nghiêm túc đưa ra ba căn bản của Nho, Thích, Đạo, Đệ Tử Quy của Nho gia, Cảm Ứng Thiên của Đạo gia và Thập Thiện Nghiệp Đạo của Phật gia. Quả thật, trong thời quá khứ, người Trung Quốc từ nhỏ đều biết đến ba căn bản này, đều được giáo dục nên học Phật rất dễ dàng. Mở kinh bổn ra xem, ta thấy “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, chúng ta chẳng xa lạ chút nào, quay đầu nghĩ lại, đại khái là nói đến chúng ta, ta cũng đáng thuộc trong số đó. Thập Thiện Nghiệp Đạo đă làm được, quư vị là thiện nam tử, thiện nữ nhân, Thập Thiện Nghiệp Đạo không làm được, nhân quả trong Cảm Ứng Thiên không biết, quư vị chưa được giáo dục. Có cơ sở Nho và Đạo, chỉ cần tiếp xúc Thập Thiện Nghiệp Đạo liền hiểu rơ, có thể thực hiện. V́ vậy, trong Phật pháp, bất luận xuất gia hay tại gia, nghiêm túc học tập, lẽ nào không thành tựu! Hiện thời, những thứ này bị coi thường, bỏ sót, chẳng có nữa, chẳng có th́ sẽ như thế nào? Người ta biết làm việc, nhưng chẳng biết làm người! Phương pháp làm việc đă học, nhưng quy củ làm người chẳng học, con người chẳng biết làm người, xă hội sẽ động loạn. Hiện thời, muốn xă hội an định, muốn xă hội ḥa hài, ngoại trừ t́m lại những thứ của tổ tiên, chẳng có biện pháp nào tốt đẹp hơn. Do vậy, chúng tôi vẫn đề xướng Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo, hàng xuất gia c̣n có thêm Sa Di Luật Nghi. Chúng ta nghĩ xem trong số những người dạy các môn này trong hiện thời, có ai từ thế giới Cực Lạc trở lại hay không? Tôi nghĩ chắc chắn là có! Những vị Pháp Thân Bồ Tát ấy tới thế gian thị hiện ǵ vậy? Thị hiện làm giáo viên Tiểu Học; thật đấy, chẳng giả đâu! Đấy là ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên dùng thân ǵ để độ được liền hiện thân ấy, chắc chắn là như vậy. “Tằng sanh Cực Lạc, phi hoằng thệ khải, du hóa thập phương, trợ Phật hoằng hóa” (từng sanh Cực Lạc, khoác giáp hoằng thệ, du hóa mười phương, giúp Phật hoằng dương, giáo hóa), chúng ta chớ nên khinh dễ, phải tôn trọng, phải lễ kính.

      “Như thị triển chuyển giáo hóa, triển chuyển độ thoát” (lần lượt giáo hóa, lần lượt độ thoát như vậy), đó là pháp luân thường chuyển, chúng ta nghiêm túc nỗ lực dạy người khác, người khác học được, lại đi dạy kẻ khác nữa. Đặc biệt là trong thời đại hiện tiền, những nơi làm mẫu quan trọng hơn bất cứ điều ǵ khác. Thiếu những nơi ấy, tuy chúng ta có dạy, tốn thời gian nhiều đến đâu đi nữa, hao tốn tinh thần đến đâu đi nữa, hiệu quả chẳng rơ rệt, v́ sao? Người khác chẳng nh́n thấy. V́ thế, nhất định phải có chỗ thí nghiệm, thực hiện trong một phạm vi nhỏ, trong một khu vực nhỏ, hoặc một thị trấn nhỏ, thực hiện một trăm phần trăm, có một nơi như thế. Tôi tin tưởng mọi người chúng ta thật sự phát tâm, Tam Bảo gia tŕ, nguyện vọng ấy sẽ được thực hiện, sẽ xuất hiện. Dạy bên ngoài, quư vị có tin hay không? Quư vị đến nơi ấy mà xem, hăy đến tham quan. Sau khi họ thấy, chẳng c̣n hoài nghi nữa, cũng sẽ thật sự làm. Có thể sanh ra hiệu quả hay không, điều này rất trọng yếu! Hiện thời có rất nhiều người đang tu phước trong Phật môn, dựng chùa to miếu lớn, có lợi ích hay không? Trước đây, thầy Lư c̣n tại thế, thường bảo chúng tôi: “Hữu miếu vô đạo, bất năng hưng giáo” (Có chùa, nhưng chẳng có đạo, giáo pháp chẳng thể hưng thịnh). Lăo nhân gia cả đời không coi trọng đạo tràng, nên đạo tràng rất sơ sài, cụ coi trọng bồi dưỡng nhân tài. Hiện thời, chúng ta không chỉ phải coi trọng bồi dưỡng nhân tài, mà c̣n phải coi trọng những tiểu khu gương mẫu. Tại Tam Trọng, Đài Loan có một con phố, có hai vị thầy vất vả lo toan tại đó suốt mười ba năm, rất có thành tích, nay đă được chánh phủ công nhận. Người thật sự có tâm, thật sự là bậc Bồ Tát từ Tây Phương Cực Lạc thế giới trở lại, thay A Di Đà Phật làm chuyện tốt đẹp, thật sự cứu khổ, cứu nạn, cứu giúp hết thảy chúng sanh, lập ra những chỗ làm gương. Đó là sự nghiệp Bồ Tát, sự nghiệp thần thánh, sự nghiệp nào trong thế gian đều chẳng thể sánh bằng! Trong quá khứ, chúng tôi đă thực hiện tại trấn Thang Tŕ của huyện Lô Giang ba năm, nay đă chuyển đến nơi đây. Ba năm ở Lô Giang là giáo dục toàn dân, làm thành công, dọn sang bên này, tôi chú trọng bồi dưỡng giáo viên, làm cơ sở huấn luyện thầy tṛ. Trong tương lai có duyên phận như vậy, tiểu trấn, tiểu khu nào muốn làm, chúng tôi sẽ có giáo viên đến dạy; không có thầy đến dạy sẽ chẳng thành công. Do vậy, chúng tôi đọc đến đoạn này, nghĩ đến những vị thầy tốt đẹp ấy, thật sự thực hiện rồi hy sinh, dâng hiến, vốn là từ thế giới Cực Lạc trở lại, trong quá khứ đă đến thế giới Cực Lạc, nay giúp Phật giáo hóa chúng sanh, xoay vần giáo hóa, xoay vần độ thoát. “Thị cố kinh trung vô lượng vô biên nhất thiết Bồ Tát, giai tuân Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (V́ thế, vô lượng vô biên hết thảy các vị Bồ Tát trong kinh đều tuân theo đức của Phổ Hiền đại sĩ). Có phải là từ thế giới Cực Lạc quay lại hay không? Từ câu nói ấy, quư vị sẽ thấy được tin tức. Câu nào vậy? “Giai tuân Phổ Hiền đại sĩ chi đức”. Nếu từ Tây Phương Cực Lạc thế giới đến, người ấy chắc chắn có tập khí này, không cần ai phải dạy, chính người ấy thể hiện lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường, sám trừ nghiệp chướng, hiển thị ra, tự nhiên làm cho quư vị thấy, thật đấy, chẳng giả đâu!

      Chúng ta lại xem tiếp đoạn dưới: “Cụ túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết công đức pháp trung. Thượng lưỡng cú sơ tán chư đại sĩ chi thật đức” (Đầy đủ vô lượng hạnh nguyện, an trụ trong hết thảy các pháp công đức. Hai câu trên khen ngợi thật đức của Đại Sĩ). Hai câu này nói chung về các vị đại Bồ Tát, họ có công đức chân thật, trọn đủ vô lượng hạnh nguyện. Vô lượng hạnh nguyện là mười đại nguyện vương được mở rộng, khuếch trương, giống như các vị đại Bồ Tát đă mở rộng Thập Thiện Nghiệp Đạo thành tám vạn bốn ngàn tế hạnh. Tám vạn bốn ngàn tế hạnh của Bồ Tát quy nạp thành Thập Thiện Nghiệp, ở đây cũng là mười điều của Phổ Hiền, mở rộng thành vô lượng vô biên hạnh nguyện. “Vô lượng giả, kỳ đa, kỳ đại, vô pháp xứng lượng, cố danh vô lượng” (vô lượng là nhiều, lớn, chẳng có cách nào đo lường, nên gọi là vô lượng). Trong Nhiếp Đại Thừa Luận Thích có nói, Thích () là giải thích, “bất khả dĩ thí loại đắc tri vi vô lượng” [nghĩa là] chẳng có cách nào dùng tỷ dụ để sánh ví mà ḥng biết được th́ gọi là “vô lượng”. Giải thích hai chữ này! “Hạnh vị Lục Độ, Tứ Nhiếp đẳng đại hạnh” (“Hạnh” là các đại hạnh như Lục Độ, Tứ Nhiếp v.v...). Bồ Tát biểu hiện cho chúng ta thấy, nhằm khẳng định những điều ấy, làm cho chúng ta xem. Bọn phàm phu chúng ta có tâm hạnh tương phản, Bồ Tát thích bố thí, phàm phu ưa tích trữ. [Phàm phu] tích trữ những thứ không mang theo được, c̣n Bồ Tát th́ thứ ǵ không mang theo được đều bố thí hết. Phàm phu chuộng làm ác, Bồ Tát chuộng tŕ giới. Bố thí độ keo tham, tŕ giới độ ác nghiệp, nhẫn nhục độ sân khuể, tinh tấn độ giải đăi, Thiền Định độ tán loạn, trí huệ độ ngu si, Bồ Tát dùng sáu điều này để tự độ, độ người khác.

      Tứ Nhiếp Pháp là phương thức tiếp dẫn chúng sanh, nói theo cách bây giờ, chúng là các cách thức để Bồ Tát giao tiếp công chúng. Bồ Tát tiếp dẫn chúng sanh như thế nào? Ngài có bốn phương pháp:

      1) Phương pháp thứ nhất là Bố Thí. Bố thí ở đây khác với Bố Thí trong Lục Độ, bố thí ở đây là ǵ? Mời khách nhiều, tặng quà nhiều, người thế gian chúng ta thường nói là “lễ đa, nhân bất quái” (lễ nhiều, người ta chẳng trách). Bồ Tát thật sự dùng phương pháp như thế, tặng quà nhiều, mời khách nhiều, tạo dựng cảm t́nh. Sau khi đă tạo dựng quan hệ tốt đẹp rồi, sẽ dễ nói chuyện.

      2) Ái Ngữ là lời lẽ tốt đẹp thật sự quan tâm, thuốc hay đắng miệng, thật sự có thể nói lời chân tâm với họ.

      3) Lợi Hành là hành vi của Bồ Tát nhất định có lợi cho chúng sanh.

      4) Cuối cùng là Đồng Sự, hết sức lỗi lạc, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Bồ Tát có trí huệ, Bồ Tát có thần thông. Dẫu quư vị có ác hạnh, Ngài vẫn có thể tùy thuận, trong tùy thuận sẽ uốn nắn quư vị, khiến cho quư vị giác ngộ, quay đầu là bờ.

      Trong Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư đă giảng Tứ Đức, đó là Tánh Đức, là đại căn đại bổn của đức hạnh Bồ Tát. Giống như bổn nguyện của A Di Đà Phật và bổn nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, đó là đại căn đại bổn. Thứ nhất là “tùy duyên diệu dụng”, thứ hai là “oai nghi có pháp tắc”, oai nghi có pháp tắc là nêu gương tốt cho người ta thấy, chớ nên nêu gương xấu, phải nêu gương tốt. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều phải nêu bày dáng vẻ tốt đẹp, dáng vẻ ấy tương ứng với Tánh Đức, tại Trung Quốc chắc chắn phải là dáng vẻ tốt đẹp tương ứng với hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân ái, ḥa b́nh. “Nhu ḥa chất trực”, đây là thái độ biểu hiện trong tiếp xúc với đại chúng, một niềm hoan hỷ, tâm địa chân thành, biểu lộ ra ngoài một niềm hoan hỷ. “Đại chúng sanh khổ” (chịu khổ thay cho chúng sanh), chúng ta có thể biểu diễn đại nguyện chịu khổ thay cho chúng sanh rất khá, có thể làm rất tốt, thật sự giúp nhiều chúng sanh quay đầu là bờ. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!

 

Tập 100

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm mười sáu, xem ḍng thứ năm từ dưới đếm lên, chúng ta đọc từ chỗ ấy:

      “Cụ túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết công đức pháp trung. Thượng lưỡng cú sơ tán chư đại sĩ chi thật đức. Vô lượng giả, kỳ đa, kỳ đại, vô pháp xứng lượng” (Đầy đủ vô lượng hạnh nguyện, an trụ trong hết thảy các pháp công đức. Hai câu này khen ngợi thật đức của Đại Sĩ. Vô lượng là nhiều, lớn, chẳng có cách nào đo lường), nói không được,“cố danh vô lượng. Nhiếp Đại Thừa Luận Thích vân: Bất khả dĩ thí loại đắc tri” (nên gọi là vô lượng. Nhiếp Đại Thừa Luận Thích nói: “Chẳng thể dùng thí dụ, so sánh để biết được”). [Thông thường], do thí dụ sẽ có thể biết được, nhưng [ở đây] vẫn chẳng có cách nào thí dụ sao cho thích hợp nên gọi là Vô Lượng. Vô lượng hạnh nguyện, “Hạnh vị Lục Độ, Tứ Nhiếp đẳng đại hạnh” (Hạnh là các đại hạnh như Lục Độ, Tứ Nhiếp v.v...), trong phần trước chúng tôi đă tŕnh bày rồi. “Nguyện vị Tứ Hoằng Thệ dữ thập đại nguyện đẳng thắng nguyện” (Nguyện là các nguyện thù thắng như Tứ Hoằng Thệ Nguyện và mười đại nguyện v.v...), Tứ Hoằng Thệ Nguyện là tổng nguyện (nguyện chung) của hết thảy chư Phật, Bồ Tát trong giáo pháp Đại Thừa, chỉ nói bốn câu, nhưng bốn câu đă bao gồm toàn bộ vô lượng đại nguyện trong lúc tu nhân của hàng Bồ Tát. Nguyện thứ nhất là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, nói theo cách bây giờ, chữ Độ () này là giúp đỡ, góp sức thành tựu họ. Chúng sanh vô lượng vô biên, trong kinh giáo đă nói: “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân” (trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai). Chắc chắn Phật, Bồ Tát chẳng bỏ qua bất cứ một ai, bất cứ chúng sanh nào, v́ sao? Các vị Bồ Tát biết hết thảy chúng sanh và chính ḿnh là một Thể, so với “một nhà” c̣n thân thiết hơn. Một chúng sanh bị khổ, chịu nạn, há có thể bỏ qua? Đă là một chúng sanh cũng chẳng bỏ qua, hiện thời chúng sanh khổ nạn nhiều ngần ấy, v́ sao Phật chẳng độ họ? Chúng ta nhất định phải hiểu điều này, trong kinh đă có giải thích: “Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt” (tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt). Ư nghĩa của “ba thứ chẳng sai biệt” rất rộng, chẳng phải chỉ có một ư nghĩa. Cách giải thích thứ nhất là ba điều ấy b́nh đẳng, một mà ba, ba mà một, chúng sanh, Phật, tâm là một chuyện, chẳng phải là ba chuyện, mà là một, chẳng phải là ba. Cách giải thích thứ hai là sức của ba thứ ấy bằng nhau. Nghiệp lực của chúng sanh, nguyện lực của chư Phật và sức mạnh của tâm là b́nh đẳng. Tâm là Thể, Phật và chúng sanh đều là tác dụng, một đằng là tác dụng chánh diện, Phật là chánh diện, một đằng là tác dụng phản diện, chúng sanh là tác dụng phản diện. Cũng có thể nói, Phật là tác dụng thiện, chúng sanh là tác dụng bất thiện, sức mạnh bằng nhau. Do vậy, chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Tội nghiệp của chúng sanh chẳng tiêu trừ, sức mạnh của Phật chẳng tăng thêm, sức mạnh của tâm cũng chẳng tăng thêm. Tâm, Phật, chúng sanh, nghiệp lực bất thiện của chúng sanh ắt phải tiêu trừ th́ sức mạnh của Phật mới giúp được. Tâm chẳng có thiện hay ác, nó là bản thể, nhưng bất luận là chân hay vọng, đều là từ Thể khởi lên tác dụng. Tâm tùy duyên, có thể thuận theo duyên nhiễm hay tịnh; chúng sanh tạo tội nghiệp, nó bèn thuận theo nhiễm duyên hiện ra lục đạo luân hồi, hiện ra quả báo trong tam đồ, nó tùy duyên. Chư Phật, Bồ Tát đoạn ác, tu thiện, tích công, lũy đức, nó cũng tùy duyên. Thế giới Hoa Tạng là tâm tùy duyên, thế giới Cực Lạc cũng là tâm tùy duyên, nó có thể thuận theo duyên nhiễm hay tịnh, chưa hề có khởi tâm động niệm. V́ thế, đức Phật mới nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, chữ “tâm tưởng” chỉ ư niệm của chúng ta, người hiện thời gọi là “tâm thái”, nó làm chủ, chủ tể thiên biến vạn hóa, có ư nghĩa như thế đó.

      Do vậy, nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là bổn nguyện độ chúng sanh, là thật, chẳng giả. Quả thật, trong cửa nhà Phật chẳng bỏ một ai. Phật, Bồ Tát đối với hết thảy chúng sanh b́nh đẳng, nghiệp chưa tiêu trừ, bèn giúp kẻ ấy tiêu trừ nghiệp chướng. Tiêu trừ nghiệp chướng lại chẳng thể miễn cưỡng, phải hằng thuận chúng sanh, khi nào chúng sanh giác ngộ, ngộ có tiểu ngộ và đại ngộ, đẳng cấp khác biệt rất nhiều. Đối với chúng sanh chưa giác ngộ, Bồ Tát luôn dùng thiện xảo phương tiện giúp họ giác ngộ. Sau khi họ bắt đầu giác ngộ, vẫn dùng thiện xảo phương tiện giúp họ nâng cao, hy vọng họ giác ngộ càng sâu rộng hơn măi cho tới lúc viên măn. Chúng ta thường gọi viên măn là “thành Phật”, thành Phật là viên măn, đấy là nguyện độ chúng sanh. Nói đúng ra, [Tứ Hoằng Thệ Nguyện] thật sự là nói đến một nguyện này, ba nguyện sau là để hoàn thành chuyện này. Ngày nay, chúng ta cũng phát nguyện này, nguyện đă phát, nhưng chẳng có năng lực giúp chúng sanh; v́ thế, ba nguyện sau nhằm thành tựu chính ḿnh. Quư vị thấy: Dạy người khác là dạy chính ḿnh trước, độ chúng sanh cũng là độ chính ḿnh trước. Chưa độ được ḿnh mà có thể độ người, chẳng có lẽ ấy! Kinh Phật thường nói “chẳng có đạo lư ấy”. Nếu quư vị muốn giúp người khác, nhất định phải thành tựu chính ḿnh trước. Do vậy, điều thứ hai là “phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”, phải đoạn trừ tập khí phiền năo, đoạn trừ là ǵ? Thành tựu đức hạnh của chính ḿnh, điều này rất trọng yếu. Xưa nay, trong ngoài nước, trong sự giáo dục của thánh hiền, đức hạnh luôn được đặt hàng đầu. Nếu người nào chẳng có đức hạnh, kẻ ấy ngu si chút nào càng tốt chút ấy, do chẳng tạo tội nghiệp to lớn. Nếu kẻ ấy thông minh, hắn sẽ hại người, làm hại rất nhiều. V́ thế, giáo dục phẩm đức được đặt hàng đầu!

      Phẩm đức đă thành tựu, nguyện kế tiếp là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, đây là nói tới yêu cầu phải có tri thức và trí huệ. Thiếu tri thức, thiếu trí huệ, chẳng thể giúp ḿnh, mà cũng chẳng thể giúp người. Nguyện cuối cùng, trí huệ và học thuật đều phải đạt đến rốt ráo viên măn, quư vị mới có thể phổ độ chúng sanh. Cho nên nguyện cuối là “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”, thành Phật là giống như hiện nay chúng ta đi học đạt được học vị cao nhất là học vị Tiến Sĩ. Phật, Bồ Tát, A La Hán là các danh xưng học vị trong Phật môn; học vị cao nhất là Phật Đà, học vị hạng hai là Bồ Tát, học vị hạng ba là A La Hán. A La Hán đă giác ngộ, tiểu ngộ, Bồ Tát đại ngộ, Phật là đại triệt đại ngộ, chuyện là như thế đó. Chúng ta phải biết kiến thức Phật học thông thường này. Do vậy, biết chúng ta phải phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện này, v́ sao? Nguyện là động lực. Tập khí phiền năo của chúng ta rất nặng, v́ sao phải đoạn phiền năo? Chẳng phải v́ chính ḿnh, mà v́ giúp đỡ hết thảy chúng sanh, sức mạnh ấy rất lớn! Ta đoạn phiền năo sớm một ngày, sẽ giúp chúng sanh sớm một ngày, chúng sanh được lợi ích sớm một ngày, chẳng phải v́ chính ḿnh. V́ chính ḿnh th́ lười biếng một chút vẫn chẳng sao, ta chậm một hai năm, hoặc chậm trễ một hai kiếp chẳng sao! Quư vị thấy chúng sanh khổ nạn nhiều ngần ấy, há nỡ ḷng nào! V́ thế, đây là động lực đại từ đại bi thúc đẩy, nguyện lực thúc đẩy, hy vọng chính ḿnh ngay lập tức buông tập khí phiền năo xuống.

      Sau khi buông xuống mới có thể thành tựu pháp môn, trí huệ mới có thể thành tựu. Nếu chẳng buông tập khí phiền năo xuống mà quảng học đa văn th́ những ǵ quư vị học tập toàn là tri thức, chẳng phải là trí huệ, trí huệ và tri thức khác biệt ở chỗ này. Trong tri thức chẳng có tập khí phiền năo, nó sẽ là trí huệ; nếu vẫn mang tập khí phiền năo th́ là tri thức. Bởi lẽ, tri thức chỉ có thể giải quyết vấn đề cục bộ, chắc chắn c̣n có hậu quả! Trong xă hội hiện thời, chúng ta thấy rất rơ ràng! Có người nói xă hội hiện thời là xă hội tri thức bùng nổ, chẳng sai chút nào, ai nấy đều đang cầu tri thức, nhưng chẳng biết đến luân lư, đạo đức. Cũng có người nói con người hiện thời biết làm việc, nhưng chẳng biết làm người, lời này có lư! Không biết hiếu thuận với cha mẹ, không biết tôn kính tôn trưởng, thậm chí kẻ làm cha mẹ c̣n trẻ tuổi chẳng biết dạy dỗ con cái ra sao, đấy là tập khí phiền năo chưa đoạn. Trung Quốc từ xưa tới nay, bất luận là giáo dục gia đ́nh (trước đây tư thục là gia giáo), giáo dục trong nhà trường, hay trong xă hội, đều đặt luân lư, đạo đức vào vị trí hàng đầu. Luân lư, đạo đức là “phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”, xếp nó vào vị trí thứ nhất. Người thiếu tri thức chẳng sao, biết làm người, biết hiếu, đễ, trung, tín, biết lễ nghĩa, liêm, sỉ, nhân ái, ḥa b́nh, kẻ ấy là người tốt, chẳng tạo tội nghiệp. Dẫu kẻ ấy chẳng có cống hiến cho quốc gia, xă hội, nhưng chẳng gây tổn hại, quư vị nghĩ xem: Giáo dục rất trọng yếu! Sau khi đă có cơ sở ấy, lại cầu tri thức, tri thức là trí huệ. Trong Phật pháp gọi đoạn sạch tập khí phiền năo là Căn Bản Trí, trí huệ của quư vị có căn bản rồi, giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả là căn bản; toàn bộ tri thức do cầu được sẽ biến thành trí huệ, gọi là Hậu Đắc Trí. Tác dụng của Hậu Đắc Trí là thiện xảo phương tiện. Chẳng dùng trí huệ ấy để cầu lợi ích cho chính ḿnh, mà dùng để mưu cầu phước lợi cho hết thảy chúng sanh, đấy là chuyện tốt đẹp; nhưng nếu chưa thành Phật, đức hạnh và trí huệ quư vị sẽ chưa đạt tới viên măn. Chưa đạt tới viên măn, quư vị độ chúng sanh sẽ không viên măn, v́ sao? Quư vị chỉ có thể giúp kẻ có phước huệ thấp hơn quư vị, quư vị có thể giúp họ, chứ đối với kẻ có phước huệ cao hơn chính ḿnh, quư vị sẽ chẳng thể giúp được. V́ thế, phát nguyện muốn thành Phật, thành Phật có thể giúp Đẳng Giác Bồ Tát, chỉ có thành Phật mới có thể giúp họ. Chưa thành Phật, không giúp được Đẳng Giác Bồ Tát. Quư vị là Đẳng Giác Bồ Tát, không thể giúp Đẳng Giác Bồ Tát. Nếu quư vị là Thập Địa Bồ Tát th́ kể cả Thập Địa lẫn Đẳng Giác quư vị đều chẳng giúp được! Đó là đại ư của Tứ Hoằng Thệ Nguyện, nhất định phải cầu đạt đến rốt ráo viên măn, người Trung Quốc nói “hoàn mỹ” th́ hoàn mỹ là chẳng khuyết điểm, đạt đến Phật Đà mới chẳng có khuyết điểm, chứ Đẳng Giác Bồ Tát vẫn c̣n thua một bực.

      “Dữ thập đại nguyện đẳng” (và mười đại nguyện v.v...), mười đại nguyện đă nói đại lược trong phần trước. “Phổ Hiền Bồ Tát thập đại nguyện đẳng”, “đẳng” là nói tới những thứ khác, như bốn mươi tám nguyện do ngài Pháp Tạng đă phát trong hội này, hoặc các vị Bồ Tát trong khi tu nhân đă phát ra vô lượng vô biên đại nguyện thù thắng. “Nguyện dĩ đạo hạnh, hạnh dĩ măn nguyện” (nguyện để hướng dẫn hạnh, hạnh nhằm măn nguyện), nguyện nhằm dẫn dắt quư vị tu hành. Nếu chẳng nguyện, quư vị tu hành chẳng thể thành tựu. V́ sao? Chẳng có phương hướng, thiếu mục tiêu. Giống như lái thuyền trong biển cả, chẳng có phương hướng, chẳng có mục tiêu, chúng ta biết là rất nguy hiểm. Không chỉ chẳng đạt được mục đích, mà c̣n gặp nguy hiểm tột cùng bất cứ lúc nào. Thật đấy, chẳng giả đâu! V́ thế, con người chẳng thể không có nguyện, trong Phật pháp gọi là “nguyện”, tại Trung Quốc, thế tục thường nói đến “chí”. Người chẳng thể không có chí; v́ thế, chí và nguyện thường được gộp chung, nhà Phật gọi là Nguyện. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát có chung một nguyện độ chúng sanh, phổ độ chúng sanh. “Phổ” có nghĩa là b́nh đẳng, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, mang ư nghĩa b́nh đẳng. Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, v́ sao? Nhằm giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn. Trong các hành động giúp đỡ, có một nguyên tắc bất biến, đó là “giúp chúng sanh phá mê khai ngộ”, điều này rất trọng yếu! Phật, Bồ Tát biết tất cả hết thảy khổ nạn và quả báo của chúng sanh, căn nguyên của quả báo bất thiện là do mê mất bổn tánh, mê chứ không giác, đó là cội nguồn chung, căn cội của hết thảy khổ nạn và quả báo. Phật, Bồ Tát giáo học từ chỗ này, nắm vững từ căn bản th́ mới có thể sanh ra hiệu quả thù thắng. V́ thế, cứu khổ cứu nạn là giúp chúng sanh phá mê, khai ngộ. Như vậy là chúng ta hiểu rơ, thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học, mỗi ngày [đều dạy] chẳng gián đoạn, chỉ cần gặp Ngài đều là người có duyên. Gặp một người bèn dạy một người, gặp hai người bèn dạy hai người. Ngài dạy học chẳng câu nệ thời gian, cũng chẳng có nơi chốn nhất định, bất luận chỗ nào, bất luận lúc nào, hễ gặp gỡ, Ngài bèn dạy. Bậc thầy như vậy, xưa nay rất ít thấy người nhiệt tâm dường ấy, v́ sao? Ngài biết quan hệ giữa người khác và chính ḿnh. Đó là luân lư nhà Phật, luân lư cũng được giảng đến mức viên măn. Hết thảy chúng sanh và ta là một Thể. [Đă là] một Thể th́ gặp người khác, kẻ ấy đă mê, tạo tác bất thiện, há lẽ nào chẳng dạy? Không chỉ phải dạy, mà c̣n nhất định phải giúp cho kẻ ấy giác ngộ, đó là “chẳng bỏ một ai”. V́ thế, nguyện trọng yếu vô cùng. Nguyện chánh xác, phương hướng mục tiêu chánh xác th́ hạnh của chúng ta chánh đáng, tư tưởng, lời lẽ, và hành vi đều chánh đáng. Tư tưởng, lời lẽ, hành vi bất chánh, nói cách khác, [nguyên nhân là do] chí nguyện chẳng lập, chí nguyện chẳng kiên cố, nên tư tưởng và hành vi của kẻ ấy trong [cuộc sống] hằng ngày mới có lệch lạc.

      Hạnh nhằm măn Nguyện, nhất định phải tu hành th́ mới có thể thỏa măn nguyện vọng của quư vị. Chúng ta muốn đoạn phiền năo, phải học pháp môn. Phiền năo chẳng đoạn, học pháp môn bằng cách nào? Pháp môn nhất định phải giúp quư vị đoạn phiền năo, v́ sao? Trong giai đoạn này, đoạn phiền năo là chủ yếu. Phiền năo chẳng đoạn, pháp môn chẳng thể thành tựu. Phương pháp đoạn phiền năo và học pháp môn vô lượng vô biên, “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, vô lượng, vô biên; nhưng để đoạn phiền năo, chỉ có thể chọn lựa mấy thứ trong vô lượng vô biên pháp môn, không thể quá nhiều, nhiều quá lại chuốc lấy một đống lớn phiền năo! Không chỉ chẳng đoạn được, mà ngược lại [phiền năo] c̣n tăng trưởng. Hiện tượng như thế rất phổ biến, xưa nay trong ngoài nước đều có, chẳng phải là ngoại lệ. Do vậy, đọc tụng Đại Thừa cũng là một pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Ta đọc tụng nhằm mục đích nào? Chẳng phải là pháp môn vô lượng thệ nguyện học, không nhằm mục đích này, mà nhằm giúp ta đoạn phiền năo. Phiền phức lớn nhất trong các phiền năo là vọng niệm và vọng tưởng. Quư vị thấy đó, niệm trước diệt, niệm sau sanh, tuyệt đối chẳng thể ngưng dứt, đương nhiên càng chẳng thể đoạn dứt. Vọng niệm tơi bời, cả đống ư niệm bất thiện, dùng phương pháp ǵ? Vô lượng pháp môn quy nạp lại chỉ có mấy thứ, tŕ giới là một phương pháp, tu Định là một phương pháp, tác Quán là một phương pháp, đó là Chỉ Quán, niệm Phật là một phương pháp, đọc kinh cũng là một phương pháp. Đọc kinh phải đọc như thế nào? Dùng phương pháp đọc kinh để chấm dứt vọng niệm. Không đọc kinh, vọng niệm rất nhiều. Đọc kinh nhằm tập trung cái tâm một chỗ, chế tâm nhất xứ. Cũng là nói “buông xuống tất cả ư niệm, cung kính niệm bộ kinh này”. Như kinh Vô Lượng Thọ, tốc độ không nên quá nhanh, mà cũng đừng quá chậm, phải khiến cho vọng tưởng chẳng xâm nhập, nhằm mục tiêu này. Ta đọc kinh này từ đầu đến cuối một lần, đại khái phải từ một giờ rưỡi đến hai giờ, đấy là quư vị tu hành một tiếng rưỡi hoặc tu hai giờ. Đọc kinh là đoạn phiền năo, nhất định phải hiểu mục tiêu này. Do vậy, sau khi đọc một bộ kinh, vọng niệm cũng chẳng có, công phu khá lắm! Đọc một bộ kinh, trong hai tiếng đồng hồ chẳng khởi một vọng niệm, công phu tốt đẹp lắm. Hai tiếng đồng hồ chẳng khởi một vọng niệm, nói thông thường, phải huấn luyện bao lâu? Đại khái huấn luyện từ ba năm đến năm năm mới có thể đạt tới tŕnh độ này. V́ thế, niệm một bộ kinh, khởi lên mười hoặc hai mươi vọng tưởng là b́nh thường. Muốn đạt đến mức khởi hai, ba vọng tưởng ước chừng phải mất ba năm công phu, chẳng có ba năm công phu, sẽ chẳng làm được. Có thể khởi một vọng tưởng, đại khái phải đến năm năm công phu. Tâm quư vị đă định, định lâu sẽ khai trí huệ, phương pháp đọc tụng là như vậy.

      Đọc tụng quyết định không nên nghĩ trong kinh có ư nghĩa ǵ, v́ quư vị vừa nghĩ tới ư nghĩa th́ ư nghĩa là vọng tưởng, vọng tưởng lại xâm nhập rồi. Chỉ niệm, chẳng có ư nghĩa ǵ, dùng cách này để dứt vọng tưởng. Niệm Phật, tu Định, tŕ giới đều dùng phương pháp này, mục tiêu tương đồng, dụng ư như nhau. V́ thế, phương pháp đọc tụng này đối với phần tử tri thức hữu hiệu nhất, nhiều năm qua tôi sử dụng biện pháp này. Tôi niệm Phật không được, niệm Phật suốt ngày cả một vạn tiếng Phật hiệu, vẫn cứ khởi vọng tưởng y như cũ, nhưng xem kinh hoặc đọc kinh th́ được; v́ thế, đây là do căn tánh của mỗi cá nhân khác nhau. Lúc mới học cũng có thể thử xem, tŕ chú, tŕ giới đều có thể thử xem phương pháp nào thích hợp với chính ḿnh, sử dụng rất thuận tiện, chính ḿnh cũng rất ưa thích, bèn dùng phương pháp ấy. V́ thế, hiện thời mỗi ngày, thông thường vào lúc ít khách, thời gian đọc kinh của tôi sẽ chẳng ít hơn bốn giờ đồng hồ, dùng phương pháp này để đoạn ư niệm của chính ḿnh. Trọn chẳng nghĩ đến ư nghĩa trong kinh, hễ nghĩ sẽ là cầu giải, đó là một pháp môn khác. Hiện thời tôi đọc kinh, mục đích của tôi là nhằm tu Định, nhằm ngưng dứt vọng niệm, công phu ở chỗ này. Nghiên cứu cầu giải, một mặt nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, giúp cho Chỉ Quán của chính ḿnh, triết học hiện thời gọi Chỉ Quán là vũ trụ quan và nhân sinh quan, nâng cao cảnh giới của chính ḿnh về phương diện ấy. Mặt khác, chúng tôi chia sẻ tâm đắc trong học tập với đại chúng, cũng giúp cho mọi người có thể liễu giải nghĩa lư của kinh. Sau khi liễu giải, biết chính ḿnh mỗi ngày phải sống như thế nào, đó là tu hành, tu hành là cuộc sống. Nói cách khác, chúng ta chẳng sống cuộc đời lục đạo luân hồi, chúng ta ở nơi đây (trong lục đạo) mà sống cuộc đời của Phật, Bồ Tát, có thể đạt tới thanh lương, tự tại, người thế gian gọi [cuộc sống ấy] là “hạnh phúc mỹ măn”. Cuộc sống của Phật, Bồ Tát là hạnh phúc mỹ măn. Nói cách khác, dùng kinh điển để chỉ đạo chúng ta sống như thế nào, mang ư nghĩa này. Do vậy, Hạnh mới có thể măn Nguyện. Dùng một chữ Hạnh để bao gồm hành vi sai lầm của chúng ta, bao gồm tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, tạo tác. Nương theo kinh giáo để uốn nắn, sửa đổi cách nghĩ lầm, thấy trật, nói sai, làm quấy, đó là tu hành. Tu hành ở chỗ nào? Tu hành trong hết thảy thời, hết thảy chỗ. Thật vậy, tu nơi khởi tâm động niệm, đó là cội rễ của Hạnh. Khởi tâm động niệm thiện, ngôn hạnh của quư vị chắc chắn là thiện. Khởi tâm động niệm bất thiện, ngôn hạnh đương nhiên sẽ bất thiện, căn nguyên của nó là ư niệm. V́ thế, Hạnh nhằm măn Nguyện. “Hạnh như túc, nguyện như mục, hỗ tương y tŕ” (Hạnh như chân, Nguyện như mắt, nương tựa lẫn nhau), đây là nói về mối quan hệ giữa Hạnh và Nguyện, Nguyện lănh đạo quư vị, chỉ dẫn quư vị phương hướng và mục tiêu chánh xác, quư vị mới có thể đạt đến.

      “Cụ túc”, trong kinh Phật thường dùng hai chữ này. Ở đây, giải thích ư nghĩa hai chữ này rất hay, “viên măn vô dư”, [nghĩa là] viên măn, chẳng khiếm khuyết mảy may nào, đó là “cụ túc”, “cụ túc” có nghĩa là viên măn. “Hạnh Nguyện Phẩm vân”, [nghĩa là] trong phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện có nói, “văn thử nguyện vương” (nghe nguyện vương này), quư vị nghe mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát, đại khái quư vị cũng có thể hiểu rơ ư nghĩa của mười điều ấy, “độc, tụng, thư tả” (đọc, tụng, biên chép), đều là công phu. Đối trước kinh điển để niệm là Độc (), Tụng () là niệm thuộc ḷng, niệm rất thuộc, không cần xem kinh cũng có thể đọc thuộc ḷng, đó là Tụng. Ngoài đọc tụng ra là biên chép, nay chúng ta gọi là “mặc tả” (默寫: chép thuộc ḷng), nhưng khi viết có thể nh́n vào kinh bổn để chép th́ chúng ta gọi là “sao kinh” (抄經), không xem kinh để viết th́ gọi là “mặc tả”. “Thư tả” là hai loại này. “Thị chư nhân đẳng, ư nhất niệm trung, sở hữu hạnh nguyện giai đắc thành tựu” (Những người ấy trong một niệm, tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu). Quư vị hăy suy nghĩ mấy câu này, nếu chúng ta chẳng nhất tâm xưng niệm, sẽ chẳng có hiệu quả ấy! Kinh Di Giáo nói “chế tâm nhất xứ”, nhất tâm xưng niệm và chế tâm nhất xứ có cùng một ư nghĩa, người thế gian chúng ta nói là “chuyên tâm”. Khi tụng niệm công khóa, khi tu hành, tâm vô nhị niệm, kinh văn [hiển hiện] rơ ràng, minh bạch trong tâm của chính ḿnh. Trong khi ấy, mười nguyện này, nguyện nào cũng đều trọn đủ, đều được thành tựu. Trong một nguyện, viên măn chín nguyện khác, nguyện nào cũng là như thế, quư vị thấy mười nguyện biến thành một trăm nguyện. Do vậy, [mỗi đời trong ba đời] đem phối hợp với ba đời, quá khứ, hiện tại, tương lai, lại thành cửu thế. Cửu thế là nói theo thời gian, [tức là] đời quá khứ của quá khứ, đời hiện tại của quá khứ, đời vị lai của quá khứ, đời quá khứ của hiện tại, đời hiện tại của hiện tại, đời vị lai của hiện tại; đời vị lai của vị lai, đời hiện tại của vị lai, đời quá khứ của vị lai. Quư vị chia ra như vậy, [cửu thế cộng với “tam thế” ban đầu sẽ thành “thập thế”, mỗi thế có mười nguyện nên] mười nguyện sẽ biến thành một ngàn nguyện. Do lư do đó, mười điều thiện của Bồ Tát có thể lần lượt biến thành tám vạn bốn ngàn tế hạnh, do từ chỗ này mở rộng ra. Mười nguyện Phổ Hiền đương nhiên cũng là tám vạn bốn ngàn tế hạnh, lại mở rộng ra, đúng là vô lượng, vô biên, vô số, vô tận, “một tức là nhiều, nhiều tức là một”, đây là câu nói tổng kết trong kinh Hoa Nghiêm. Đều ở trong một niệm tâm, niệm niệm như vậy, chẳng thể nghĩ bàn!

      “Thử chánh hiển tùng quả hướng nhân, dĩ Di Đà chi thiện xảo phương tiện gia tŕ hồi hướng, thành tựu vô lượng siêu xuất Thập Địa chư thánh chi hạnh nguyện” (Điều này chỉ rơ từ quả hướng về nhân, dùng phương tiện thiện xảo của Phật Di Đà để gia tŕ hồi hướng thành tựu vô lượng hạnh nguyện vượt trỗi các vị thánh trong Thập Địa). Đoạn kinh văn ngắn này trong phẩm Hạnh Nguyện cho thấy Như Lai từ quả hướng đến nhân. Phổ Hiền Bồ Tát đă chứng đắc quả vị rốt ráo, thuộc địa vị Diệu Giác, thị hiện thân phận Đẳng Giác Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Đẳng Giác Bồ Tát là nhân vị (địa vị tu nhân), Diệu Giác là quả vị (địa vị chứng quả). Nói cách khác, chúng sanh có cảm, tự tánh Thường Tịch Quang có ứng, tướng của Ứng Thân ấy là Đẳng Giác Bồ Tát. Đó là “từ quả hướng đến nhân”, người Hoa gọi [chuyện này] là “thả chiếc bè Từ”. Ngài quay lại, dần dần tiến lên cao hơn; nay Ngài lui lại, lui lại để giúp đỡ chúng ta. Nếu Ngài không lui xuống, cứ trụ trong địa vị ấy, chúng ta sẽ không thể tiến lên. Ngài đến đi tự do, chúng ta chẳng tự do, nên Ngài cần phải lui xuống giúp đỡ chúng ta, giúp bằng cách nào? Quư vị thấy, Phổ Hiền Bồ Tát dùng thiện xảo phương tiện của Phật Di Đà để gia tŕ, hồi hướng, thả chiếc bè Từ, vẫn xin A Di Đà Phật dùng thiện xảo phương tiện nơi bổn nguyện gồm bốn mươi tám nguyện để gia tŕ, hồi hướng, đấy là biểu diễn cho chúng ta thấy. Chúng ta trông thấy, hiểu rơ, có nên nương tựa A Di Đà Phật hay không? Đă chứng đắc địa vị Diệu Giác, quay trở lại thị hiện như vậy, chẳng có chi khác, chỉ nhằm khuyến cáo chúng ta nhất định phải nương cậy A Di Đà Phật. A Di Đà Phật ở chỗ nào? Một bộ kinh này là A Di Đà Phật, phải hiểu điều này. Chúng ta mỗi ngày cúng dường tượng A Di Đà Phật, mỗi ngày đốt hương, dập đầu lạy lục cầu Ngài phù hộ, đó là mê tín, như vậy là có lỗi với A Di Đà Phật, coi A Di Đà Phật như thần tiên, sai lầm rồi! Thờ h́nh tượng nhằm ư nghĩa ǵ? Thờ tượng để nhắc nhở chúng ta thường nghĩ đến kinh Vô Lượng Thọ. Giáo huấn của A Di Đà Phật dành cho chúng ta hoàn toàn ở trong bộ kinh điển này, nghe danh hiệu liền nghĩ đến kinh điển, thấy h́nh tượng cũng phải nghĩ đến kinh điển, tác dụng ở chỗ này. Thời thời khắc khắc dùng h́nh tượng để nhắc nhở chúng ta, dạy chúng ta niệm niệm chớ quên. Người học Phật thờ h́nh tượng Phật, Bồ Tát là do ư nghĩa ấy. Phải biết điều này; nếu không, sẽ là làm chuyện mê tín. V́ sao người học Phật chúng ta thờ h́nh tượng Phật nhiều như thế? Tánh Đức của chúng ta vô lượng vô biên, [nếu chỉ] dùng một danh hiệu, một h́nh tượng, sẽ chẳng có cách nào hiển thị Tánh Đức viên măn của chúng ta.

      Do vậy, A Di Đà Phật đại diện kinh Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm Bồ Tát đại diện phẩm Phổ Môn, Phổ Hiền Bồ Tát đại diện phẩm Hạnh Nguyện, Văn Thù Bồ Tát đại diện kinh Bát Nhă, Địa Tạng Bồ Tát đại diện kinh Bổn Nguyện, chúng ta trông thấy h́nh tượng các Ngài bèn nghĩ đến giáo huấn trong các bộ kinh điển ấy. Các kinh điển ấy dạy ǵ? Kinh Vô Lượng Thọ biểu thị đại viên măn, Quán Âm Bồ Tát biểu thị từ bi. Nghe các danh hiệu ấy, thấy các h́nh tượng ấy, phải nghĩ ta nên giống hệt như Quán Âm Bồ Tát, dùng tâm đại từ đại bi đối đăi hết thảy chúng sanh, mang ư nghĩa này, chớ nên hiểu sai! Địa Tạng Bồ Tát biểu thị hiếu thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng, đấy là căn bản của giáo học. Giáo dục của thánh hiền thế gian và xuất thế gian sanh ra từ đâu? Sanh từ hiếu thảo cha mẹ và tôn trọng thầy. V́ thế, danh hiệu của Bồ Tát là Địa Tạng, Địa là đại địa, Tạng là kho báu. Nay quư vị thấy [người ta] thăm ḍ đại địa để t́m khoáng sản. Địa ở đây là nói tới tâm địa, kho báu trong tâm địa là vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, dùng phương pháp ǵ để khai thác? Dùng hai phương pháp là hiếu thảo cha mẹ và tôn trọng thầy để khai thác kho báu trong tự tánh, dùng ư nghĩa này. Nghe danh hiệu, thấy h́nh tượng, bèn lập tức nghĩ đến [hiếu thân, tôn sư], quư vị thấy Tánh Đức thường thấu lộ ra ngoài, đó là chuyện tốt. Văn Thù Bồ Tát biểu thị trí huệ, Phổ Hiền Bồ Tát biểu thị “thật sự làm”, dùng danh từ này cho dễ hiểu. Phổ Hiền Bồ Tát là thật sự làm, khai phát Tánh Đức trong tự tánh. Đặt ra những thứ ấy, những nghệ thuật phẩm ấy đều là thiện xảo phương tiện trong nhà Phật, chẳng có chút xíu mê tín nào! Do vậy, thật sự hiểu, đă hiểu rơ ràng, chúng ta sẽ bội phục Phật pháp năm vóc sát đất, đó gọi là ǵ? Nghệ thuật hóa giáo học. Nghệ thuật hóa là trong thời cận đại, từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, trong xă hội chúng ta nghe nói đến danh từ “nghệ thuật hóa” rất nhiều, thứ ǵ cũng đều nhấn mạnh nghệ thuật, ngay cả chiến tranh cũng nhấn mạnh nghệ thuật, chánh trị cũng là nghệ thuật, công thương cũng là nghệ thuật, đều nhấn mạnh nghệ thuật hóa! Từ ba ngàn năm trước, Phật đă thực hiện nghệ thuật hóa, thảy đều tiến nhập nghệ thuật hóa giáo học, chúng ta chẳng thể không bội phục. Ba ngàn năm sau, con người mới nghĩ tới, mới theo đuổi nghệ thuật. Do vậy, trong Phật pháp, hết sức coi trọng điêu khắc, hội họa, âm nhạc, mỹ thuật, kiến trúc, thứ ǵ cũng đều nhằm biểu thị pháp, thứ ǵ cũng đều là giáo học. Quư vị thật sự thấu hiểu, chẳng cần nói câu nào. Bước vào chùa miếu, quư vị cũng thu được một bài học rất phong phú, rất viên măn. Những điều này đều nhằm nói về thiện xảo phương tiện, gia tŕ hồi hướng, tất cả hết thảy đều là gia tŕ.

      Cuối cùng nói “phổ giai hồi hướng”, tâm lượng của chúng ta đă khôi phục b́nh thường. Tâm lượng b́nh thường là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (tâm trọn khắp thái hư, lượng như các cơi nước nhiều như cát), người Hoa thường nói “lượng to, phước lớn”. Đức Phật bảo chúng ta, tâm lượng của mỗi cá nhân chúng ta vốn c̣n to hơn hư không pháp giới, quư vị vốn sẵn là như vậy. Nay chúng ta phải t́m lại cái vốn có, phải t́m lại tự tánh, hồi hướng là đạt tới viên măn, t́m lại nó một cách viên măn. Cách luyện tập trong lúc thường ngày là như thế nào? Phải luyện tập ngay trong hiện tại. Hiện thời, tâm lượng rất nhỏ, phải vận dụng trong thường nhật, khởi tâm động niệm đừng nghĩ v́ chính ḿnh, hăy thường nghĩ v́ chúng sanh, tâm lượng bèn rộng mở. Thật vậy, trí huệ hiện tiền, phước báo cũng to lớn. Niệm niệm nghĩ v́ chính ḿnh, buôn bán mong phát tài, niệm niệm mong ḿnh phát tài, tiền của sẽ có hạn. V́ sao? Trong mạng đă định sẵn, quư vị chẳng có cách nào vượt qua [hạn mức đă định sẵn ấy]; nhưng nếu chuyển biến ư niệm, ta phát tài chẳng v́ chính ḿnh, mà phát tài nhằm giúp hết thảy chúng sanh khổ nạn, tuyệt lắm, đấy chẳng c̣n là tài vật trong mạng của quư vị nữa, v́ sao? Tánh Đức tỏ lộ, của cải sẽ vô lượng vô biên, v́ sao? Tất cả chúng sanh khổ nạn đều hưởng phước của quư vị, đó là thật!

      Vào hai ngàn năm trăm năm trước, nhằm thời đại Xuân Thu, [tức là] nhằm thời đại Ngô - Việt thời Xuân Thu, quư vị thấy Phạm Lăi buôn bán chẳng v́ chính ḿnh, rất nhanh, mấy năm đă phát tài to. Sau khi phát tài, thấy người ta nghèo cùng, khổ sở, đều giúp đỡ, tán tài, chia cho mọi người, khiến cho mọi người có thể sống qua ngày. Chính ḿnh lại từ cái vốn nhỏ nhoi để bắt đầu buôn bán, trong mạng cũng có, hơn nữa, lại làm chuyện tốt đẹp to tát dường ấy, ông ta thật sự có thể phát tài, phát tài là v́ có đại đạo, bố thí mà! Từ món tiền vốn nhỏ để bắt đầu buôn bán, chưa đầy hai ba năm lại phát tài, phát tài nhiều hơn lần trước, lập tức chia hết của cải. Sau khi chia sạch, lại làm từ đầu, rất tuyệt! Ba lần tụ tài, ba lần tán tài, nên sau này, người Hoa thờ ông ta làm Tài Thần. Người Hoa thờ ai làm Tài Thần? Phạm Lăi! Điều này rất có lư, ông ta là một vị thương nhân Bồ Tát, dạy quư vị kinh doanh, buôn bán như thế nào? Chẳng v́ chính ḿnh, mà v́ chúng sanh. Bản thân quư vị tu phước, đời đời kiếp kiếp hưởng chẳng hết, quư vị thấy quư vị đă cứu vớt bao nhiêu người? Quư vị bố thí, thi ân, trong tương lai, con cháu trong nhà quư vị ai nấy đều là con hiếu, cháu hiền, v́ sao? Chúng nó đến báo ân, chẳng đến báo oán, chẳng đến đ̣i nợ. Phạm Lăi nêu gương cho chúng ta thấy. Đặc biệt là trong thế giới hiện đại, hết thảy nhấn mạnh khoa học, khoa học đ̣i hỏi chứng cớ, chúng ta cũng phải nêu gương. Tán tài chẳng thua thiệt, tán tài là chiếm đại tiện nghi, nhưng chẳng ai biết chuyện này.

      Đến hồi hướng mới thật sự là viên măn, do vậy, người ấy thành tựu vô lượng hạnh nguyện vượt trỗi chư thánh thuộc Thập Địa. Người ấy thực hiện triệt để, viên măn. Những vị Bồ Tát ấy học theo A Di Đà Phật; A Di Đà Phật kiến lập Tây Phương Cực Lạc thế giới để làm ǵ? Chẳng phải v́ chính ḿnh, chẳng dính vào tiếng tăm, lợi dưỡng cho chính ḿnh, mà nhằm giúp lục đạo chúng sanh trong hết thảy các cơi Phật khắp pháp giới hư không giới, tiếp dẫn họ đến thế giới Cực Lạc, tạo ra một đạo tràng thích hợp nhất để tu hành thành tựu trong thế giới Cực Lạc, hoan nghênh họ đến đó. Chẳng đ̣i hỏi điều kiện rất cao, mà là điều kiện rất đơn giản, quư vị thật sự là thiện nam tử, thiện nữ nhân, cũng tức là quư vị có thể làm được Thập Thiện Nghiệp Đạo, tin tưởng pháp môn này, bằng ḷng văng sanh, Ngài sẽ đến tiếp dẫn quư vị. [Điều kiện căn bản để văng sanh là] tín nguyện tŕ danh, quư vị thấy đơn giản lắm! Nhưng chúng ta chớ nên quên, đừng sơ sót một điều kiện trọng yếu như Thích Ca Mâu Ni Phật đă giới thiệu: “Chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cơi ấy”, câu này trọng yếu lắm. Quư vị có tín, có nguyện, có hạnh, đến cuối cùng quư vị chẳng thể văng sanh, bèn trách “Phật lừa ta”. Phật chẳng lừa quư vị, Phật đă nói rất rơ ràng, quư vị ít thiện căn, phước đức, nhân duyên, sẽ chẳng thể đến đó. Đến đó, nhất định phải là người nhiều thiện căn. Thiện căn là ǵ? Thiện căn là tín nguyện, quư vị thật sự tin tưởng, nguyện thiết tha. Đó là thiện căn. Phước đức là ǵ? Phước đức là thật sự làm, ta thật sự thực hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo, v́ nơi ấy toàn là chư thượng thiện nhân cùng nhóm họp một chỗ. Tiêu chuẩn của thiện là mười thiện nghiệp, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói đôi chiều, không nói thêu dệt, không ác khẩu, không tham, không sân, không si. Làm được điều kiện này vài phần là được rồi. Làm viên măn cả mười điều kiện sẽ thành Phật, chúng ta có thể làm đến một phần trăm th́ được rồi, nắm chắc văng sanh Cực Lạc thế giới! Do vậy, mười nguyện ấy chẳng thể không tu, cách tu mười nguyện ấy ra sao? Tôi đă nói rất nhiều lần, thực hiện Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên chính là tu Thập Thiện Nghiệp Đạo. V́ Thập Thiện Nghiệp Đạo chỉ đề ra cương lănh, chẳng nói chi tiết. Cảm Ứng Thiên và Đệ Tử Quy là hạng mục chi tiết, c̣n mười điều [trong Thập Thiện Nghiệp Đạo] là tổng cương lănh. Quư vị thực hiện hai thứ ấy th́ Đệ Tử Quy đă làm được, Thập Thiện Nghiệp cũng làm được, quư vị là chư thượng thiện nhân. Tuy là tiểu thiện, khi văng sanh, A Di Đà Phật trước hết dùng Phật quang chiếu gội quư vị. Phật quang vừa chiếu, tiểu thiện sẽ biến thành đại thiện, nâng lên cao, đó là Phật lực gia tŕ. Phật lực gia tŕ là tương đối, [nghĩa là] quư vị có bao nhiêu, Ngài tăng thêm bấy nhiêu. Chúng ta tu nhiều, Ngài sẽ tăng thêm nhiều, chớ nên không hiểu đạo lư này!

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp: “An trụ nhất thiết công đức pháp trung, nhất thiết công đức pháp chỉ Phật quả chi vô tận công đức” (An trụ trong hết thảy pháp công đức: Chữ “hết thảy công đức” chỉ Phật quả công đức vô tận). Chúng ta thường nói viên măn xứng tánh là hết thảy công đức, thật vậy, cũng chẳng có ǵ hiếm lạ, v́ sao? Vốn trọn đủ trong tự tánh, hết thảy chúng sanh ai nấy đều có phần, chẳng phải là nói Phật có, c̣n chúng ta chẳng có. “Chúng ta có” là có như thế nào? Tuy có, nhưng hiện thời bị chướng ngại, tuy có, nhưng không lấy ra được. Ví như quư vị có tài sản ức vạn, đều để trong ngân hàng, cất trong ấy, hiện thời quư vị ở bên ngoài, muốn ăn một bữa cơm, túi không có tiền, vẫn phải tạm thời làm lụng một chút, người ta mới cho quư vị ăn một bữa. Chẳng phải là quư vị không có, nhưng hiện thời chẳng lấy ra được, có chướng ngại, đạo lư là như vậy đó. Phật và Pháp Thân Bồ Tát chẳng có chướng ngại; v́ thế, đối với Tánh Đức viên măn có thể tự tại khởi tác dụng, đối với vô lượng trí huệ, vô lượng thần thông có thể tự tại khởi tác dụng, đạo lư như vậy đó. Đức Phật đă nói rất rơ ràng, nếu chúng ta diệt trừ chướng ngại, chướng ngại của chúng ta chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chướng ngại chia thành ba loại lớn ấy, mỗi loại đều là vô lượng vô biên, gồm ba loại lớn ấy! Đức Phật nói rất rơ ràng, hoàn toàn diệt trừ ba loại lớn ấy, quư vị sẽ thành Phật, chẳng khác ǵ A Di Đà Phật, trí huệ và đức tướng trong tự tánh sẽ hiện tiền viên măn. Chưa có năng lực trừ diệt hoàn toàn th́ trừ từng phần, có tất cả ba phần, trong ba phần diệt trừ một phần, đă khởi tác dụng rồi. Trừ từ bên ngoài, tức là trước hết, hăy trừ từ bên ngoài, phần ở bên ngoài chính là chấp trước. Nếu là thật sự [đoạn trừ], chúng ta buông chấp trước xuống, chẳng c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, quư vị chứng quả A La Hán, hết thảy công đức trong tự tánh thấu lộ một phần ba. Một phần ba đă là thần thông rộng lớn rồi! Người Hoa đọc Tây Du Kư rất nhiều, biết Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại, nhưng A La Hán vượt trỗi Tôn Ngộ Không chẳng phải chỉ là một vạn lần, Tôn Ngộ Không chẳng thể sánh bằng A La Hán! Quư vị biết đó là v́ năng lực khôi phục, thần thông khôi phục. Nếu lại khử thêm một phần, tức là lại trừ khử phần phân biệt, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng c̣n phân biệt, chư vị phải biết, không chấp trước sẽ đắc tâm thanh tịnh, tựa đề kinh này là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chẳng chấp trước, tâm thanh tịnh hiện tiền, [đó là] A La Hán. Chẳng phân biệt, tâm b́nh đẳng hiện tiền. Bồ Tát chẳng phân biệt, A La Hán c̣n có phân biệt, Ngài chẳng chấp trước, nhưng có phân biệt. Đối với phân biệt, Bồ Tát cũng chẳng có, Tánh Đức trong tự tánh thấu lộ hai phần ba. Cuối cùng là đại triệt đại ngộ, đó là giác, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, sự giác ấy là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, hoàn toàn chẳng có chướng ngại, [Tánh Đức trong tự tánh] thấu lộ toàn bộ.

      Ở đây, nói đến vô tận công đức. Phật quả có công đức vô tận, đó là viên măn xứng tánh, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác đều đă đạt được. Nếu chẳng giải thích như vậy, chỉ nói “hết thảy các pháp công đức” th́ Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật đều có thể nói [là các Ngài trọn đủ hết thảy các pháp công đức]. Phía sau thêm vào một câu, nói rơ là công đức vô tận nơi Phật quả. Như vậy là không phải là nói tới [quả vị] Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chẳng nói tới các địa vị ấy, mà nói tới quả địa Như Lai, thật sự chứng đắc viên măn “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” th́ mới là cảnh giới đó. Đây là nói người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều an trụ trong hết thảy các pháp công đức nhằm cổ vũ, khích lệ chúng ta cầu sanh thế giới Cực Lạc. Chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, nói thật ra, sự hưởng thụ của chúng ta nhiều nhất là bằng Thanh Văn, chưa viên măn, nhưng thế giới ấy là thế giới đặc thù, chẳng giống những thế giới khác! Trong nguyện thứ hai mươi, A Di Đà Phật đă nói hễ ai sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới “đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát”. Câu này rất trọng yếu, trong các cơi Phật khắp mười phương chẳng có điều này, chỉ riêng thế giới Cực Lạc là có. Do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuy chưa đoạn phiền năo, nhưng trí huệ, thần thông, và đạo lực của quư vị bằng với A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát là ǵ? Là Phật! Hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, đến bên kia được đăi ngộ, được hưởng thụ sự đăi ngộ nơi Phật quả, t́m đâu ra điều này! Cũng có thể nói là quư vị đến thế giới Cực Lạc bèn thành Phật. Sự “thành Phật” ấy chẳng phải là thật sự thành Phật, mà do A Di Đà Phật gia tŕ quư vị. Loại đăi ngộ ấy do A Di Đà Phật ban cho quư vị, chẳng do chính bản thân quư vị đạt được, chính ḿnh vẫn c̣n phải tu [ḥng thật sự đạt đến]. Bất quá chính ḿnh tu sẽ rất dễ dàng, lại c̣n rút ngắn thời gian với một mức độ to lớn. Quư vị thấy đó, tu hành trong thế giới [Sa Bà] này phải mất vô lượng kiếp, trụ trong vô lượng kiếp; đến thế giới Cực Lạc tu hành, chúng ta nói về quả vị thấp nhất là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tu hành trong thế giới Cực Lạc, tu đến mức an trụ trong hết thảy các pháp công đức phải mất thời gian bao lâu? Mười hai kiếp. Quư vị thấy vô lượng kiếp lập tức rút ngắn thành mười hai kiếp. Đối với hoàn cảnh học tập [tốt đẹp, thuận tiện] ấy, quư vị có nên đến đó hay không? Khắp pháp giới hư không giới, chẳng thể t́m đâu ra một nơi nào giống như vậy! Chỉ có một chỗ gương mẫu như thế, hết sức đáng quư! Mười phương hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều tán thán, đều khuyên dạy chúng ta phải sanh về đó, nhưng chúng ta vẫn chẳng muốn sanh về, quư vị nói xem nghiệp chướng của quư vị nặng nề lắm thay! Bao nhiêu vị Bồ Tát mong tưởng đến đó mà chẳng có duyên phận này, chẳng gặp gỡ duyên phận này. Do duyên phận, nay chúng ta được gặp gỡ, nhưng chẳng mong sanh về, đúng là lầm lạc quá đỗi! Đó là [pháp tu] rốt ráo viên măn, thành tựu trong một đời!

      “Nhân Vương Kinh Sớ vân: Thí vật danh Công” (Nhân Vương Kinh Sớ giảng: “Thí cho chúng sanh gọi là Công”), Công ở đây là công đức, hai chữ “công đức” giải thích ra sao? Ở đây có nói: “Quy kỷ viết Đức” (Quy về ḿnh là Đức). Do vậy, công đức và phước đức khác nhau, ngàn vạn phần đừng coi tu phước là công đức; nếu vậy, quư vị đă hoàn toàn sai lầm mất rồi! Công là “thí vật”, ở đây là “vật,” chẳng nói “thí cho người” mà nói “thí vật”. Nếu nói là người th́ trong mười pháp giới chỉ có nhân đạo, Ngài nói “vật” bao gồm toàn bộ mười pháp giới trong ấy. Đối với những kẻ ngang vai vế chúng ta th́ nói là “bố thí”, đối với những bậc cao hơn chúng ta như chư thiên th́ gọi là “cúng dường”. Cúng dường cũng là bố thí, [nhưng nói “cúng dường” th́] danh xưng tôn kính hơn một chút. Trên là cúng chư Phật, Bồ Tát, chư thiên, thiện thần; dưới là cúng dường cửu giới chúng sanh, đều gọi chung là “vật”. Trong chữ Vật này có hai ư nghĩa:

      - Một là đối tượng bố thí của chúng ta, nay chúng ta nói là hết thảy người và vật.

      - Thứ hai là nội dung bố thí, có tài bố thí, pháp bố thí và vô úy bố thí. Chúng ta dùng này ba thứ này để bố thí hay cúng dường, trên là đến thiên thần, dưới là chúng sanh trong địa ngục, tâm lượng ấy lớn lắm!

      Các nhà khoa học hiện thời nói đến các chiều không gian khác nhau, chúng ta thường gọi chúng là “mười pháp giới”, tức các chiều không gian khác nhau. Trong các chiều không gian khác nhau đều có sinh vật, [bao gồm] lục đạo chúng sanh chưa khai ngộ, hoặc là chúng sanh thuộc bốn thánh pháp giới tuy đă khai ngộ nhưng chưa viên măn, họ đều là đối tượng để chúng ta bố thí hay cúng dường, đó là “tu Công”. Quư vị tu Công nhất định được lợi ích, lợi ích ǵ vậy? Quy về chính ḿnh là Đức. Quư vị thí tài bèn được của cải. Thưa quư vị, càng thí sẽ càng nhiều!

      Năm 1999, tôi ở Tân Gia Ba, đề nghị với cư sĩ Lư Mộc Nguyên, khi ấy ông ta làm Tổng Vụ của Cư Sĩ Lâm, Lâm Trưởng là ông Trần Quang Biệt, nhưng ông Lư giống như Chấp Hành Đổng Sự (giám đốc điều hành), hết thảy mọi việc trong Cư Sĩ Lâm đều do ông ta quản trị. Tôi khuyên ông ta nên thí thực, tức là cho người khác ăn cơm, cách làm ra sao? Cho mọi người đến Cư Sĩ Lâm ăn cơm miễn phí, chẳng phân biệt là tôn giáo nào, kẻ ấy có tin tưởng tôn giáo hay không chẳng quan trọng, chỉ cần đến ăn cơm, chúng tôi đều hoan nghênh, hoan nghênh kẻ ấy đến ăn cơm. Lại c̣n ăn cơm không gián đoạn. Ăn theo lối buffet, đến ăn lúc nào cũng được, suốt ngày đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ chẳng gián đoạn, ban đêm vẫn mở cửa. Ban đêm th́ có mạn đầu (bánh bao không nhân), bánh ḿ, điểm tâm, cháo, thức ăn lót dạ[5], nước trà, hai mươi bốn giờ chẳng gián đoạn. Ước chừng mỗi ngày có hơn một ngàn người đến Cư Sĩ Lâm ăn cơm. Cuối tuần hoặc ngày lễ, cả ba bốn ngàn người, vô cùng náo nhiệt. Khi đó, Cư Sĩ Lâm thâu nhập vẫn c̣n khá lắm, chúng tôi thực hiện cách ấy. Làm chưa đến một tháng, Cư Sĩ Lâm chẳng cần phải bỏ ra đồng nào để mua sắm, v́ sao? Người Tân Gia Ba đều biết tới, những đệ tử Phật môn mỗi ngày đem gạo đến biếu, dầu cũng biếu cho, rau dưa đưa đến biếu, thứ ǵ cũng chẳng phải mua. Biếu tặng nhiều quá, người ăn được quá ít, mỗi ngày mấy ngàn người mà vẫn ăn quá ít, những thứ ấy chẳng thể giữ được, giữ lại chúng sẽ hư mất, đặc biệt là rau dưa, làm thế nào đây? Cư Sĩ Lâm t́m hai xe chở hàng nhỏ, mỗi ngày đưa đi bố thí, biếu tặng bên ngoài, đưa đến đâu? Các tôn giáo khác, họ có viện dưỡng lăo, cô nhi viện, trường học, thảy đều đem tặng hết. Tất cả các tôn giáo chúng tôi đều bố thí, bố thí hết cả, càng thí, càng nhiều! Do vậy, những tôn giáo ấy cũng rất thân thiết với chúng tôi. Đến Cư Sĩ Lâm ăn cơm, có chẳng ít món ăn, quầy buffet của chúng tôi có từ mười lăm đến hai mươi món ăn. Mỗi ngày đều là như vậy, đều là mới nấu nóng hổi. Ông Hoàng Kim Huy là Tổng Thống Tân Gia Ba xưa kia, có một hôm đến Cư Sĩ Lâm dùng cơm, chúng tôi cùng ăn chung. Ông ta nói với ông Lư Mộc Nguyên: “Các vị thật sự giỏi quá! Trong nhà tôi thức ăn chỉ có năm món, quư vị có đến hai mươi mấy món”. Do ông ta đến thăm, nên hôm đó đặc biệt tăng thêm thức ăn, nấu thêm mấy món nữa! “Quá phong phú, quư vị lấy tiền từ đâu ra?” Khi các tu sĩ hoặc tín đồ các tôn giáo đến đây ăn cơm cũng đều hỏi như vậy, thấy có nhiều người ngần ấy, quư vị lấy tiền từ đâu ra? Ông Lư Mộc Nguyên nói: “Chúng tôi có ông chủ làm hậu thuẫn”, họ hỏi: “Ông chủ là ai?” “A Di Đà Phật”, chứng minh đức Phật nói chẳng sai, càng thí, càng nhiều, thứ ǵ cũng có, chẳng phải bận ḷng chút nào!

      Hiện thời, quư vị thấy trong nước cư sĩ Tề Tố B́nh ở núi Đông Thiên Mục, chỗ bà ta là núi hoang, chẳng có ǵ cả, phát tâm bố thí, mười mấy năm qua càng thí càng nhiều. Đúng như trong Phật môn đă nói: “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Quư vị phải hiểu rơ đạo lư và chân tướng sự thật này, quư vị đă hiểu rơ, sẽ yên tâm lớn mật bố thí, chẳng sợ hăi. Quư vị hiểu đấy là phước huệ chân thật, do bố thí mà có. Tài bố thí được của cải, pháp bố thí được thông minh, trí huệ, vô úy bố thí được khỏe mạnh, sống lâu. Quư vị thấy ba điều này có ai chẳng mong muốn! Của cải do đâu mà có? Trong mạng có của cải là do trong đời quá khứ quư vị đă tu tài bố thí. Không phải trời già quyết định, cũng chẳng phải do Phật, Bồ Tát ban cho! Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, không tu không đắc! Một người là như thế, một gia đ́nh là như thế, một nước cũng là như thế. Nếu người lănh đạo nước Mỹ hiểu đạo lư này, cần ǵ phải phát động chiến tranh? Chẳng cần! Quư vị vẫn là “hữu cầu tất ứng”. Hơn nữa, phát động chiến tranh sẽ “cái được chẳng bù nổi cái mất”. Trung Đông nẩy sanh chiến tranh v́ sao? Vẫn chẳng phải v́ dầu hỏa! Nước quư vị có tiền, v́ sao không mua dầu, mà phải tốn kém quân phí nhiều ngần ấy? Quân phí nhiều ngần ấy để chiếm lănh địa phương đó, điều ǵ cũng chẳng đạt được, chẳng biết phải tốn kém hơn món tiền bỏ ra mua dầu chẳng biết bao nhiêu lần, lại c̣n chuốc lấy tiếng xấu, c̣n chuốc cả đống phiền phức. Phiền phức ǵ vậy? Chiến tranh khủng bố. Tôi c̣n bảo đồng học truy t́m trên Internet, t́m được một tin, nhưng không lưu ư, là mỗi năm nước Mỹ tiêu tốn cho cuộc chiến tranh chống khủng bố vượt xa chi phí do hai cuộc Thế Chiến lần thứ nhất và lần thứ hai gộp lại. Kinh khủng quá! Chẳng phải là chính ḿnh chuốc lấy phiền phức ư? Tôi hy vọng các đồng học t́m trên Internet tin này, hạ tải xuống để tôi xem kỹ lưỡng hơn. Họ học Phật th́ tốt hơn, nhưng chẳng học Phật! Học Phật bèn hiểu rơ, muốn ǵ có nấy, nhưng chẳng tạo tội nghiệp. Do vậy, đối với “cầu” trong Phật pháp, xưa kia, Chương Gia đại sư đă dạy tôi, có đạo lư, có lư luận, có phương pháp. Đúng lư, đúng pháp, có cầu ắt ứng, chẳng có ǵ là mê tín trong ấy! Cần ǵ phải tạo tội nghiệp? Tạo tội nghiệp chỉ khiến đức bị khuyết, chỉ khiến cho của cải, trí huệ, sức khỏe và tuổi thọ trong mạng của quư vị bị giảm xuống, chẳng thể tăng lên. V́ thế, giáo huấn của thánh hiền có giá trị, có chỗ hữu dụng, chẳng thể không t́m lại. Không chỉ phải t́m lại, mà c̣n phải đích thân dốc sức hành, phát huy rộng lớn.

       Tịnh Ảnh S đă giải thích công đức như sau: “Công vị công năng, chư hạnh giai hữu lợi ích chi công, cố danh vi Công” (Công là công năng, các hạnh đều có công năng lợi ích nên gọi là Công). “Chư hạnh”: Tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, hành vi được gọi là “chư hạnh”, chúng đều có công năng lợi ích. Nếu chúng tùy thuận Tánh Đức, đó là Công. Trái phạm Tánh Đức th́ tạo nghiệt (tạo nên những mầm mống tội lỗi, khổ quả), như vậy là có tội! Theo bước thánh hiền, cổ thánh tiên hiền, chư Phật, Bồ Tát, thánh hiền của các tôn giáo Tây Phương, đều là Công. Vi phạm giáo huấn của thánh hiền là Tội. “Thử công thị thiện hành gia đức” (công ấy là đức sẵn có của người làm lành), chúng tôi đổi một chữ trong câu này cho mọi người dễ hiểu, tức là “thiện hành nhân gia chi đức” (đức của người làm điều thiện), “thiện hành gia đức” có nghĩa như vậy. Đức ấy cũng đạt được, quư vị có được của cải, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu. “Cố danh công đức” (nên gọi là công đức). Cách giải thích chữ Công Đức này cũng rất hay. “Đức thể danh pháp” (Thể của đức là pháp), đức ấy do đâu mà có? Do pháp, tức là an trụ trong hết thảy các pháp công đức. Lại phải giải thích chữ Pháp này. “Phạn vân Đạt Ma” (tiếng Phạn là Dharma), Dharma là tiếng Ấn Độ, tiếng Phạn là Dharma, người Hoa dịch là Pháp, “thông ư nhất thiết” (chỉ chung hết thảy), đây là danh từ chung để chỉ hết thảy vạn sự vạn vật. “Vô luận tiểu giả, đại giả, hữu h́nh giả, vô h́nh giả, chân thật giả, hư vọng giả, thị sự vật giả, thị đạo lư giả” (bất luận là lớn, nhỏ, hữu h́nh, vô h́nh, chân thật, hư vọng, là sự vật hay là đạo lư), nói ngắn gọn, dùng một chữ để xưng hô là Pháp. Đó là cách xưng hô theo Đối Pháp[6]. Trong toàn thể vũ trụ, trong giáo pháp Đại Thừa thường dùng sáu chữ để bao gồm toàn bộ hết thảy mọi sự trong vũ trụ. Sáu chữ là:

      - Tánh - Tướng: Trong triết học gọi Tánh là bản thể của vũ trụ, Tướng là hiện tượng. Kinh Phật dùng danh từ này, Triết Học hiện thời cũng dùng danh từ này.

      - Thứ hai là Lư - Sự. Lư là lư luận, Sự là tất cả hết thảy tạo tác, biến hóa. Sách Hoàn Nguyên Quán nói “xuất sanh vô tận”, đó là Sự, nó biến hóa. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới [đều thuộc về Sự]. Tự tánh thanh tịnh viên minh thể là Lư. Do vậy, Lư là Thể, Sự là Tướng, đặc biệt coi trọng sự biến hóa.

      - Hai chữ sau đó là Nhân - Quả.

      Tánh - Tướng, Lư - Sự, Nhân - Quả đă bao gồm trọn hết toàn thể vũ trụ, chẳng sót một pháp nào. Phật pháp thường nói như thế.

      “Duy Thức Luận viết” (Duy Thức Luận nói), nêu kinh luận để giải thích danh tướng này, “Pháp vị quỹ tŕ. Quỹ vị quỹ phạm (軌範), khả sanh vật giải” (Pháp là quỹ tŕ (duy tŕ theo đúng đường lối). Quỹ () là đường lối, khuôn khổ, có thể khiến cho chúng sanh khởi lên kiến giải). Quỹ là quỹ đạo (軌道: đường lối định sẵn), cũng là “trật tự” như ta nói trong hiện thời. Trong toàn thể vũ trụ, quư vị thấy tinh hệ, ngân hà, chúng ta nói tới ngân hà, những tinh cầu ấy vận hành trong vũ trụ đều có quỹ đạo, tuy rất nhiều, cũng là vô số vô lượng; nhưng chúng có trật tự nhất định, chẳng xảy ra va chạm, điều đó gọi là Quỹ; v́ thế, nay chúng ta gọi là “pháp tắc thiên nhiên”. Trên địa cầu có rất nhiều sinh vật, những sinh vật cùng tồn tại, sinh trưởng trên địa cầu, có liên quan với nhau. Do liên quan lẫn nhau mới tạo thành cân bằng sinh thái trên địa cầu, địa cầu phát triển tốt đẹp, quư vị chớ nên phá hoại. Nếu con người tùy thuận thiên nhiên, sẽ thuận lợi nhất; phá hoại thiên nhiên, tai nạn sẽ xảy đến. Chúng tôi nêu một thí dụ rơ rệt nhất. Cha mẹ sanh ra chúng ta có thân thể này, đó là tự nhiên. Chúng ta tùy thuận tự nhiên, khéo yêu thương thân thể này, quư vị sẽ cả đời khỏe mạnh, hạnh phúc. Nếu quư vị chẳng ưa thích nó, muốn đến thẩm mỹ viện, biến đổi khuôn mặt tự nhiên thành dáng vẻ như quư vị tưởng tượng. Có thể hay không? Có thể chứ! Sau khi đi thẩm mỹ viện, [thỏa ư] đại khái được mấy năm, quư vị phải khổ cả đời, đau khổ cả đời, nỗi khổ ấy do chính quư vị chuốc lấy. Ở Úc Châu Học Viện, có một nữ cư sĩ làm công quả, thuở trẻ đi sửa mũi, sống mũi được nâng cao hơn, sau lúc bốn mươi tuổi đau khổ không chịu nổi, mỗi ngày phải chịu tội, gặp tôi kể chuyện ấy. Tôi nói: “Bà đă phá hoại cân bằng sinh thái tự nhiên, nên hiện thời phải chịu tai nạn này”.

      Khoa học kỹ thuật phát triển, mọi người đă hiểu sai lời cổ nhân: “Nhân định thắng thiên”, hiện thời người ta hiểu câu ấy nghĩa là ǵ? Con người nhất định có thể thắng thiên, tức là chiến thắng tự nhiên, trật lất rồi! Trước đây người ta nói “nhân định thắng thiên” nghĩa là con người phải định, nói về tu Thiền Định. Có Thiền Định rất sâu, Định sanh trí huệ, năng lực ấy có thể thắng thiên, có ư nghĩa như vậy. Nay tâm quư vị dao động, hời hợt, học được một chút khoa học kỹ thuật, liền nghĩ ḿnh vạn năng, có thể thắng thiên hay không? Quư vị thấy hiện thời quư vị thay đổi sinh thái tự nhiên, khiến cho địa cầu tức giận, nổi nóng, nó phải trả thù. Nó lay động nhè nhẹ, những cao ốc, dinh thự bèn sụp đổ hoàn toàn, quư vị có đấu lại nó hay không? Cổ nhân nói chẳng sai, nhưng hiện thời rất nhiều ư nghĩa đă bị vặn vẹo, hiểu lệch lạc mất rồi! Bởi lẽ, đối với tự nhiên, cổ nhân kính trời, kính quỷ thần. Khổng phu tử cũng chẳng phải là ngoại lệ: “Kính quỷ thần nhi viễn chi”, “viễn chi” là ǵ? Chẳng để cho quỷ thần thao túng! Thật ra, điều ấy tương ứng với mười đại nguyện vương, lễ kính chư Phật, kể cả trời, đất, quỷ thần, bao gồm núi, sông, đại địa, không ǵ chẳng kính. Quỷ thần cung cấp tin tức thiện, chúng ta có thể tiếp nhận; nếu là bất thiện, vi phạm pháp tắc thiên nhiên, chúng ta chẳng cần phải tiếp nhận nó. Tương ứng với pháp tắc của thiên nhiên th́ chúng ta có thể tiếp nhận, chấp nhận. Trong trời đất, quỷ thần có kẻ thiện lương, chẳng phải là không có, nhưng kẻ bất thiện cũng chẳng ít, chúng ta chớ nên không biết. Nhất định phải dùng định lực, tâm chớ nên bộp chộp, hời hợt, đừng nên bị xung động bởi cảm t́nh, hăy dùng lư trí để xử sự ḥng khỏi mắc phải lỗi lầm!

      Con người hiện thời đi sau tiến bộ khoa học, thật vậy, chúng ta có lỗi với địa cầu, có lỗi với núi, sông, đại địa, khai thác bừa băi, phá hoại tùy tiện, chẳng có một chút tâm cung kính nào. Phật pháp cho chúng ta biết cây cối, hoa, cỏ đều có linh tánh. Trong kinh điển, đức Phật bảo chúng ta cây cối nào có chiều cao bằng con người th́ cây ấy có thần cây. Chẳng phải là cây thành thần mà là do linh thể (spirits) dựa vào cây, họ nghĩ cây ấy là nơi cư trụ của họ, nguyên nhân là như vậy đó. V́ thế, trước kia, người xuất gia tu hành trên núi, chặt mấy cây để dựng một túp lều tranh, đức Phật cho phép, nhưng ba ngày trước khi quư vị muốn chặt cây ấy, phải cúng tế thần cây, tụng kinh hồi hướng cho họ, xin phép họ ba ngày sau sẽ chặt cây, xin họ dọn nhà đi, thông báo, loan tin cho họ. Đâu có giống như trong hiện thời, chặt phá cả đống, chẳng thèm thông báo, quư vị nói xem như vậy th́ thần cây có tức giận hay không? Họ sẽ kiếm chuyện với quư vị. Đào quặng, vừa đủ bèn ngưng, chớ nên có tâm tham. Có tâm tham, phiền phức sẽ xảy đến. Hiện thời đă làm quá lố rồi, quá sức quá lố, nên núi, sông, đại địa biến đổi nhiều, rơ rệt lắm! Đến tột cùng, rất có thể toàn thể đại lục sẽ bị ch́m xuống đáy biển!

      Trong quá khứ đă từng có chuyện này, các nhà khoa học nói: Trên địa cầu, khoảng chừng năm vạn năm trước, khoa học kỹ thuật cũng khá phát triển. Trên thế giới này có nước Đại Tây (Atlantis), do cũng làm quá lố, luân lư, đạo đức, nhân quả đều chẳng cần đến nữa, tin tưởng nhân định thắng thiên, tùy ư phá hư địa cầu, tùy tiện thay đổi núi, sông, đại địa đến nỗi lục địa ch́m xuống đáy biển. Chỗ hiện thời là Đại Tây Dương, vào thời cổ là Đại Tây quốc. Chuyện này có thật hay không? Hiện nay, rất nhiều nhà thám hiểm đă ngồi tàu ngầm đến đáy biển quan sát, phát hiện thật sự có di tích thành thị dưới đáy biển, chứng tỏ chuyện này chẳng giả, biên giới của khu vực ấy gần sát nước Mỹ và Ba Tây. Trong quá khứ, địa cầu đă có tấm gương ấy, nếu người hiện thời làm quá lố, cũng có thể gặp t́nh trạng này. Đối với những chuyện này, Phật pháp đă tiết lộ tin tức, chúng ta phải coi trọng, Phật, Bồ Tát chẳng nói lời giả. Làm người phải theo quy củ, phải tuân thủ, giữ vững “quỹ đạo” của chính ḿnh, phải nêu gương điển h́nh cho đại chúng. Bởi lẽ, hết thảy các pháp đều có quỹ phạm (đường lối, phạm vi riêng biệt) “khả sanh vật giải”, chữ “vật” này chỉ chúng sanh, [“khả sanh vật giải” nghĩa là] khiến cho chúng sanh thấy những hiện tượng ấy sẽ có thể lư giải, biết Sự và Lư của nó, có thể lư giải [Sự và Lư ấy].

      “Lệ như vô thường” (chẳng hạn như [danh từ] Vô Thường), vô thường là danh tướng. “Sử nhân sanh khởi vô thường chi giải” (khiến cho người ta phát khởi sự thấu hiểu đối với vô thường), danh từ này có thể khiến cho một số người đối với tất cả hết thảy các pháp trong thế gian sanh khởi sự lư giải về vô thường, biết kinh Phật giảng hết thảy các pháp chẳng thật, “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, v́ sao? Nó vô thường, chẳng thể tồn tại vĩnh hằng, biến hóa trong từng sát-na. Không phải chỉ riêng địa cầu biến hóa trong từng sát-na, mà khắp pháp giới hư không giới đều biến hóa trong từng sát-na; hiện thời, các nhà khoa học đă phát hiện chân tướng sự thật này. Ai chủ tŕ sự biến hóa trong từng sát-na ấy? Đức Phật dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, chủ tể là niệm, tức ư niệm. Hiện thời, các nhà Lượng Tử Học đă phát hiện chuyện này, trong kinh, đức Phật giảng đạo lư sâu như vậy, người b́nh thường rất khó hiểu, nếu được Lượng Tử Học chứng minh sẽ rất hữu ích cho Phật pháp. Quả nhiên chứng thực những điều được nói trong kinh giáo Đại Thừa đều là sự thật, đối với Phật pháp và sự giáo học của các tôn giáo sẽ khởi tác dụng rất lớn, người ta chẳng c̣n coi tôn giáo là mê tín nữa. Giáo dục tôn giáo sẽ có tác dụng rất lớn đối với nhân loại, thật sự có thể hóa giải hết thảy tai nạn, giúp xă hội khôi phục an định, ḥa hài. Chúng ta phải khẳng định cổ thánh tiên hiền chẳng phải là vô tri, chẳng phải là mê tín, mà thông minh hơn chúng ta nhiều lắm, chúng ta thua kém họ rất xa!

      “Tŕ vị trụ tŕ, bất xả tự tướng, nhất thiết chư pháp, các hữu kỳ tướng” (Tŕ [trong quỹ tŕ] có nghĩa là ǵn giữ, chẳng bỏ tự tướng, hết thảy các pháp mỗi pháp đều có tướng của nó), ư nói hết thảy các pháp có thể duy tŕ trong một khoảng thời gian. Trên thực tế, nó biến hóa trong từng sát-na, nhưng biến hóa rất nhỏ yếu, chúng ta nh́n không ra. Chẳng hạn như con người biến đổi mỗi ngày, già yếu trong từng sát-na, luôn biến hóa, nhưng nếu chỉ vài ngày th́ chúng ta không thấy người đó già suy, phải sau một hai năm mới thấy người ấy thật sự biến đổi đôi chút, chẳng đột nhiên biến đổi, mà biến đổi trong từng sát-na. Hiện tượng này được gọi là Tŕ hay Bảo Tŕ. Tiếp đó, sách viết: “An trụ nhất thiết, Hội Sớ thuyết: An trụ giả, bất động nghĩa” (“An trụ hết thảy”: Hội Sớ nói: “An trụ nghĩa là bất động”), “bất động” ở đây chẳng phải là thật sự bất động. “Đức thành bất thoái, cố viết An Trụ” (đức thành tựu, chẳng lui sụt, nên gọi là An Trụ), câu này nói rất hay. “Vô đức bất cụ, cố vân nhất thiết” (không đức nào chẳng đủ, nên nói là “hết thảy”), ư nghĩa này cũng vô cùng hay. Tu đức có thành tựu, A Lại Da gần với chân tâm, đó là hiện tượng trong bốn thánh pháp giới, chưa thật sự chuyển thức thành trí, nhưng có thể tuân thủ giáo huấn của thánh hiền, nghiêm túc giữ ǵn giáo huấn của thánh hiền, người ấy có đức này. Thể của đức ấy là Tánh Đức. Tu đức tương ứng với Tánh Đức; do vậy, tuy là vô thường, tốc độ [biến đổi] của nó thong thả. Hiện tại, khoa học đă tăng nhanh tốc độ vô thường, giáo huấn của thánh nhân khiến vô thường chậm lại, quư vị thấy hai thứ hiệu quả khác nhau. V́ thế, giáo huấn của thánh hiền đem lại an trụ, b́nh an, ḥa hài, khoa học đem lại động loạn cho xă hội. Hiện thời, mỗi cá nhân chúng ta đều biết nói điều này, nhưng mỗi cá nhân đều chẳng cam ḷng, chẳng bằng ḷng, nhưng chẳng làm sao được, đều mong làm sao để khôi phục sự b́nh thường, đó là đại sự; nhưng nếu ư niệm của mọi người đều khôi phục b́nh thường sẽ chẳng khó, nhất định phải cậy vào giáo huấn của thánh hiền. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.

      Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 50 hết

 



[1] Có rất nhiều cách giải thích câu này, nói chung khó hiểu và không rơ ràng, nên chúng tôi chọn cách giải thích đơn giản của giáo sư Từ Tỉnh Dân trong tác phẩm Độc Dịch Giản Thuyết. Theo đó, sanh mạng của chúng ta do Âm Dương của cha mẹ kết hợp, trước đó, du hồn của chúng ta nhập vào thai, nhờ vào tinh khí của cha mẹ để thành thân h́nh, đó là “tinh khí vi vật”, hoặc gọi là Sanh. Khi thân thể chúng ta suy lăo, âm dương phân ly, do vậy, hồn mất nơi nương tựa, đó là chết. Hồn mất nơi nương tựa, phiêu đăng nên gọi là Du Hồn. Cho đến khi âm dương giao hội, do khí phận tương cảm, lại nương gá vào để chuyển thế lần nữa, nên gọi là “du hồn vi biến”.

[2] Tử Cấm Thành là cung điện của nhà vua. Tử Cấm Thành là danh xưng chỉ có từ thời Minh trở đi, chỉ cho hai nơi:

1. Cố Cung nhà Minh ở Nam Kinh, c̣n gọi là Nam Kinh Cố Cung, do Châu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) bắt đầu xây dựng vảo năm Chí Nguyên 27 (1367). Khi ấy, Châu Nguyên Chương vẫn c̣n là Ngô Vương, chưa xưng đế, nên c̣n gọi là Ngô Vương Tân Cung. Cung ở phía Nam núi Chung Sơn, có kích thước 790x750 mét, gồm nhiều điện như Phụng Thiên, Cẩn Thân, Văn Lâu, Vũ Lâu, Càn Thanh Cung, Khôn Ninh Cung, Đông Tây Lục Cung, chia thành bốn cửa chính là Ngọ Môn, Tây Hoa, Huyền Vũ, Đông Hoa. Phía sau cửa Ngọ Môn lại có thêm một lớp cửa là Phụng Thiên Môn. Sau khi Minh Thành Tổ dời đô về Bắc Kinh, nơi này được gọi là Cố Cung, và dùng làm hành cung nếu vua xuống phương Nam. Khi bọn phỉ Thái B́nh Thiên Quốc tấn công Nam Kinh dưới đời nhà Thanh đă phá hủy, đốt cháy toàn bộ cung điện này.

2. Tử Cấm Thành (Cố Cung Bác Vật Quán) tại Bắc Kinh là cung điện do Minh Thành Tổ xây khi dời đô lên Bắc Kinh và được dùng làm cung điện nhà vua măi cho đến khi nhà Thanh sụp đổ.

[3] Một na-do-tha (na-dữu-đa) là một con số khá lớn. Cụ thể lớn bao nhiêu th́ có nhiều thuyết khác biệt. Đời Nguyên, Châu Thế Kiệt đă cho rằng Na Do Tha là một vạn vạn lần A Tăng Kỳ. Một A Tăng Kỳ là 10 lũy thừa 104, tức là sau con số một (1) có 104 số 0. Na Do Tha là sau số một có 112 con số 0. Thuyết này hơi khác với lời dạy trong kinh Hoa Nghiêm (theo phẩm A Tăng Kỳ của kinh Hoa Nghiêm th́ Na Do Tha chỉ là 10 lũy thừa 28).

[4] Bất khả thuyết bất khả thuyết là một con số rất lớn trong kinh Hoa Nghiêm. Phẩm A Tăng Kỳ nói Tâm Vương Bồ Tát hỏi Phật về các con số, đức Phật bèn dạy: Một trăm lạc xoa là một câu chi, câu chi lần câu chi là một a dữu đa, a dữu đa lần a dữu đa là một na do tha, na do tha lần na do tha là một tối thắng... cho đến bất khả tư nghị lần bất khả tư nghị là một bất khả tư nghị chuyển, bất khả tư nghị chuyển lần bất khả tư nghị chuyển là một bất khả lượng, bất khả lượng lần bất khả lượng là một bất khả lượng chuyển, bất khả lượng chuyển lần bất khả lượng chuyển là một bất khả thuyết, bất khả thuyết lần bất khả thuyết là một bất khả thuyết chuyển, bất khả thuyết chuyển lần bất khả thuyết chuyển là một bất khả thuyết bất khả thuyết. Một lạc-xoa là mười vạn (100.000).

[5] Nguyên văn Tiểu Thái. Theo cách gọi của người Đài Loan, đây là những món ăn lặt vặt được chuẩn bị với số lượng ít, thường dùng như món khai vị, hoặc lót dạ trước khi ăn các món chính thức, chẳng hạn dưa leo trộn chua ngọt, sứa trộn, đậu nành non trộn thật cay v.v...

[6] Đối Pháp hiểu theo nghĩa hẹp là Luận Tạng, hiểu theo nghĩa rộng là danh từ thuật ngữ trong Phật pháp. Đối Pháp nghĩa là dùng trí huệ nơi thánh đạo vô lậu để quán sát đạo lư Tứ Đế và thật quả Niết Bàn.