Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 50
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
99
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang
một trăm mười lăm, ḍng thứ năm, xem
từ câu thứ hai.
“Như
thượng thập nguyện, nguyện nguyện giai
viết: Ngă thử đại nguyện, vô hữu cùng
tận, niệm niệm tương tục, vô hữu gián
đoạn, thân, ngữ, ư nghiệp, vô hữu b́ yếm”
(Mười nguyện như trên, nguyện nào cũng
đều nói: “Đại nguyện này của tôi chẳng có
cùng tận. Niệm niệm nối tiếp chẳng có gián
đoạn. Thân, ngữ, ư nghiệp chẳng có nhọc
mỏi”). Trong đoạn kinh văn này, lúc Phổ Hiền
Bồ Tát phát nguyện, đối với mỗi nguyện
đều dùng mấy câu này để tổng kết.
Ở đây nói “ngă thử
đại nguyện” (đại nguyện này của tôi),
nguyện thứ nhất là “lễ
kính chư Phật”, nguyện thứ hai là “xưng tán Như Lai”, cho
đến nguyện thứ mười là “phổ giai hồi hướng”, mỗi nguyện
chẳng có cùng tận, tương ứng với khắp
pháp giới. Đúng như “tam
chủng châu biến” (ba thứ trọn khắp) trong
Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư, thứ
nhất là “trọn khắp pháp
giới”. Trong Hoàn Nguyên Quán, Ngài nói là “dao động”. Dao
động ấy hết sức vi tế, rất nhanh,
mỗi dao động đều lập tức trọn
khắp pháp giới. Tốc độ ấy chẳng có cách
nào tưởng tượng được, chắc
chắn không phải là tốc độ ánh sáng hay tốc
độ sóng điện từ như đă nói trong
hiện tại, chẳng có cách nào sánh bằng. Ánh sáng
mặt trời từ mặt trời chiếu đến
địa cầu phải mất hơn tám phút, nhưng dao
động trong tự tánh vừa động liền
trọn khắp pháp giới. Đó là loại thứ
nhất trong ba thứ trọn khắp. Nguyện của
Phổ Hiền Bồ Tát cũng là một thứ dao
động, bất luận là hữu ư hoặc vô t́nh,
bất luận là thiện nguyện hay là ác niệm,
đều là cùng một đạo lư. V́ thế, chuyện
này chẳng phải là giả, mà là thật!
Đối với mấy câu
tổng kết này của Phổ Hiền Bồ Tát, hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian không ǵ
chẳng phải là như vậy. Hữu t́nh có ư niệm, ư
niệm ấy động, tức là hiện tượng
dao động; vô t́nh chúng sanh thuộc về vật
chất, vật chất có dao động hay không? Có.
Hiện thời, coi như chúng ta đă hiểu rơ, chẳng
dao động nó sẽ không tồn tại, nhất
định phải dao động nó mới tồn
tại. Giống như chúng ta xem phim ảnh, phim ảnh là
từng tấm phim một chiếu rất nhanh qua ống
kính [của máy chiếu], khiến cho chúng ta thấy
huyễn tướng trên màn bạc, ngỡ chúng đang
cử động. Trên thực tế, chẳng phải là
như vậy, mỗi tấm phim đều độc
lập. Nếu chúng chẳng cử động (tức là
từng tấm phim không được kéo qua ống kính),
sự chuyển động [của h́nh ảnh trên màn
bạc] bèn ngưng dứt. Nếu chúng chẳng c̣n được
liên tiếp chiếu qua ống kính nữa, màn bạc
trống rỗng, hiện tượng là như vậy
đó. Hiện thời, sáu căn của chúng ta tiếp xúc
cảnh giới sáu trần bên ngoài, đó là tướng dao
động liên tục. Các nhà khoa học c̣n thêm vào một
câu, [hiện tượng vật chất] là hiện
tượng tích lũy liên tục của ư niệm, do ư
niệm tích lũy thành. Ư niệm tích lũy thành vật
chất, nên vật chất có hiện tượng dao
động. Nếu “sóng” [ư niệm] chẳng động,
vật chất sẽ chẳng c̣n nữa, chẳng tồn
tại. Các hiện tượng dao động ấy
đều trọn khắp pháp giới, lập tức
trọn khắp pháp giới. Khoa học hiện thời
vẫn chưa thể ứng dụng hiện tượng
dao dộng ấy để truyền đạt thông tin.
Sự truyền đạt ấy quá nhanh, ánh sáng và sóng
điện từ đều chẳng thể sánh bằng.
Do vậy, câu này là thật, chẳng phải là nói tỷ
dụ, mà tương ứng với pháp giới!
Câu thứ hai, “niệm niệm tương tục” (niệm
niệm tiếp nối), nói theo cách bây giờ là
“tương ứng với thời gian”. Thời gian có
tồn tại hay không? Niệm niệm liên tục, thời
gian tồn tại dưới h́nh thái này. Nếu niệm
niệm chẳng liên tục, thời gian chẳng có, đă
đoạn rồi. V́ thế, thời gian cũng là
huyễn tướng do niệm niệm liên tục sanh ra. “Vô hữu gián đoạn” (chẳng
có gián đoạn), đấy là tương ứng với
tự tánh, tự tánh bất sanh bất diệt, chẳng
gián đoạn. Bất quá, ở đây, hai câu trước
nói đến trạng thái dao động của tự tánh.
Thật ra, tự tánh bất động, trạng thái dao
động ấy chẳng thật, nó khiến cho tự
tánh sanh ra ảnh hưởng, nhưng tự tánh quả
thật chẳng gián đoạn, tự tánh chẳng
biến đổi. Tiếp đó là “thân, ngữ, ư nghiệp”, tức là tương
ứng với tam nghiệp. Mỗi nguyện đều
tương ứng với pháp giới, tương ứng
với thời gian, tương ứng với tự tánh,
tương ứng với ba nghiệp thân - ngữ - ư. “Vô hữu b́ yếm” (chẳng
có nhọc mỏi), tự tánh vốn là như thế.
Đây là Phổ Hiền Bồ Tát đă nêu khuôn phép,
gương mẫu tu hành cho chúng ta, nêu gương cho ai?
Đều là nêu gương cho Pháp Thân Bồ Tát. Phẩm
cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là Phổ Hiền Bồ Tát
Hạnh Nguyện Phẩm, phẩm này có tựa đề
đầy đủ là Nhập Bất Tư Nghị
Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm. Bất Tư Nghị Cảnh Giới là
sở nhập (cái được chứng nhập),
tức là trở về tự tánh; Phổ Hiền Hạnh
Nguyện là năng nhập (cái có thể nhập,
phương tiện hoặc chủ thể thực
hiện sự chứng nhập ấy). Chỉ có tu Phổ
Hiền hạnh nguyện mới có thể nhập cảnh
giới ấy. Tịnh Tông gọi cảnh giới ấy
là Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Bốn câu
này, kể thêm câu cuối là “vô
hữu b́ yếm” (chẳng có nhọc mỏi) thành
năm câu, chính là Phổ Hiền Bồ Tát v́ chúng ta h́nh dung
Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang có tác
dụng, chẳng phải là vô tác dụng; chúng sanh có
cảm, Thường Tịch Quang bèn hiện tướng,
thuận theo tâm của chúng sanh để ứng với
khả năng nhận lănh của họ.
Đoạn tiếp theo, “Hạnh Nguyện Phẩm”
(trong phẩm Hạnh Nguyện), có mấy câu như sau, “Hạnh Nguyện Phẩm
phục vân” (Hạnh Nguyện Phẩm lại nói), tức là nói thêm, “nhược nhân tụng thử nguyện giả”
(nếu ai tụng nguyện này), tỉnh lược
những câu kế đó, [chỉ sao lục đoạn
này], “thị nhân lâm mạng
chung thời, tối hậu sát-na, nhất thiết chư
căn tất giai tán hoại” (người ấy lúc lâm
chung, trong sát-na cuối cùng, hết thảy các căn
thảy đều hư hoại); đây là nói về
người thường đọc tụng phẩm
Hạnh Nguyện. Kinh văn của cả phẩm Hạnh
Nguyện rất dài, gồm có tất cả bốn
mươi quyển, cổ đại đức nhằm
tạo thuận tiện cho hành nhân tu học, “hành nhân” là đệ tử
Phật môn, tức là người y theo kinh giáo để tu
hành, đặc biệt lấy ra một quyển
để lưu thông đơn độc, ḥng làm cho
người b́nh phàm học tập dễ dàng. Thanh Lương
đại sư làm chuyện này, lăo nhân gia lấy ra
quyển cuối cùng [của bộ Tứ Thập Hoa
Nghiêm]. Thông thường chúng ta nói đến Phổ
Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm th́ quá nửa là
nói tới quyển cuối cùng này. Tông Mật đại
sư đă chú giải quyển ấy tỉ mỉ, đó
chính là tác phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm
Biệt Hành Sớ Sao, [gọi tên như vậy] do nó
chẳng phải là toàn bộ kinh, chỉ là quyển
cuối cùng của cả bộ kinh, tức quyển
cuối cùng trong bốn mươi quyển. Quyển này
đặc biệt trọng yếu, quyển này chính là “mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc” như trong kinh
điển thường nói. Quyển này dẫn dắt
về Cực Lạc, mà cũng là trong năm mươi ba
lần tham học của Thiện Tài đồng tử,
đến cuối cùng, đồng tử tham phỏng
Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát
đưa Thiện Tài về thế giới Cực
Lạc, vô cùng thù thắng!
Nói theo người tu hành pháp môn
này, ở đây [kinh Hoa Nghiêm] nói là “độc tụng”, đối trước kinh
bổn để niệm th́ là “độc”
(讀: đọc),
chẳng đối trước kinh bổn [mà đọc
thuộc ḷng] th́ gọi là “tụng”.
Tụng (誦) là
niệm thuộc ḷng, niệm rất thuần thục, có
thể niệm thuộc ḷng một quyển kinh văn này.
Đọc cũng thế, mà tụng cũng vậy,
chẳng thể không hiểu ư nghĩa của kinh. Kinh có
bốn loại, “giáo, lư, hành,
quả”, văn tự, ngôn thuyết là Giáo, trong Giáo có Lư,
tức là có đạo lư. Chẳng thể không hiểu rơ
Lư, hiểu rơ là Giải. Quư vị đă hiểu rơ
đạo lư ấy, sau khi liễu giải phải hành.
Mười đại nguyện vương này đều
được áp dụng trong cuộc sống hằng ngày,
sẽ thay đổi hết thảy tâm thái sai lầm
của chúng ta. Điều thứ nhất, quư vị có
thể nói ai chẳng ngạo mạn hay không? Ngạo
mạn là phiền năo bẩm sanh, chẳng cần phải
học! Một niệm bất giác, A Lại Da liền xuất
hiện, tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở là
hiện tượng tinh thần. Thức thứ tám,
tức A Lại Da, là căn bản của mê hoặc, ba
tế tướng từ A Lại Da biến hiện thành
Mạt Na, Mạt Na là thức thứ bảy. Từ
thức thứ bảy lại biến hiện thức
thứ sáu, thức thứ sáu là ư thức. Thức thứ
bảy có tên tiếng Phạn là Mạt Na (Manas-vijñāna),
dịch sang nghĩa tiếng Hán là Nhiễm Ô Thức, [hàm ư]
nó chẳng sạch sẽ, chấp trước. Bốn
đại phiền năo thường đi theo Mạt Na,
chúng có từ lúc mới sanh ra. Bốn đại phiền
năo, thứ nhất là Ngă Kiến, chính là chấp
trước có Ngă, c̣n chưa có thân, chưa phải là
chấp trước thân, mà là chấp trước có Ngă. Do
có Ngă nên mới đi t́m thân thể, t́m thân thể
để đầu thai, t́m thân thể trong lục
đạo. Ngoài Ngă Kiến có Ngă Ái, Ngă Ái là là tham, Ngă
Mạn, quư vị thấy [Ngă Mạn] là ngạo mạn, Ngă
Mạn là sân khuể, Ngă Si. Tham, sân, si là Tam Độc
phiền năo. Khi nào sẽ có? Một niệm bất giác bèn
có. Tuy có, chẳng nghiêm trọng như hiện thời.
Hiện nay, chúng ta tham, sân, si quá nghiêm trọng, cảm
vời khá nhiều tai nạn xuất hiện. Do v́
chẳng chuyển thức thành trí, vẫn dùng tám thức,
chúng ta biết Phật, Bồ Tát trong bốn thánh pháp giới
vẫn dùng tám thức. Đă dùng tám thức th́ chúng ta
biết Ngă Kiến, Ngă Ái, Ngă Mạn, Ngă Si đương
nhiên vẫn c̣n, nhưng rất nhẹ nhàng, rất vi
tế. Trong bốn thánh pháp giới hăy
c̣n [bốn đại phiền năo ấy]; trong lục
đạo th́ thô tháp, nặng nề, chúng biến thành
Kiến Tư phiền năo. Trong kinh Phật đă nói
rất cặn kẽ, trong tam giới có tám mươi tám
phẩm Kiến Hoặc và tám mươi mốt phẩm
Tư Hoặc, chúng do những thứ ấy (Ngă Kiến,
Ngă Ái, Ngă Mạn, Ngă Si) biến hiện ra.
Do vậy, chúng ta phải
thừa nhận, chưa thể chuyển tám thức thành
bốn trí th́ Ngă Mạn hăy c̣n, chẳng dễ đoạn.
Pháp Thân Bồ Tát đă đoạn, tuy đă đoạn
nhưng vẫn c̣n có tập khí, khi học kinh Hoa Nghiêm, chúng
ta đă thảo luận chuyện này rất nhiều. Kinh
điển cho biết, muốn đoạn hoàn toàn tập
khí, phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp.
A-tăng-kỳ (Asamkhya) là đại kiếp, ba
A-tăng-kỳ, A-tăng-kỳ là con số rất lớn,
phải trải qua thời gian dài ngần ấy, tập
khí mới chẳng c̣n. Tập khí chẳng có, chúng ta
biết cơi Thật Báo sẽ chẳng có. Cơi Thật Báo do
tập khí biến ra. Thật vậy, chưa đoạn vô
minh, hễ c̣n có một phẩm vô minh chưa đoạn
th́ vẫn ở trong mười pháp giới, chẳng
ở trong cơi Thật Báo. Phải đoạn hết
một phẩm vô minh ấy, thật sự đoạn th́
mới có thể vượt thoát mười pháp giới,
trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Cơi Thật Báo của
chư Phật Như Lai cũng là cơi Thật Báo Trang Nghiêm
của chính ḿnh. Trong cảnh giới ấy, tự - tha
bất nhị, khởi tâm động niệm, phân
biệt, chấp trước đều chẳng có, ở
đây, chúng ta cũng gọi nó là Nhất Chân pháp giới,
nó là thật, mười pháp giới là giả, lục
đạo lại càng chẳng cần phải nói nữa!
Chúng ta phải thường huân tập những kinh giáo
ấy, phải đọc tụng, phải nghe giảng,
phải hiểu nghĩa, phải thường tư duy.
Tư duy là tác quán, biến nó thành một thứ vũ
trụ quan và nhân sinh quan của chúng ta. Đó là vũ
trụ quan và nhân sinh quan chánh xác nhất, chẳng có mảy
may sai lầm. Đối với vũ trụ quan và nhân sinh
quan của chư Phật Như Lai, chúng ta cũng có
thể nhập cảnh giới ấy, đó là “thật
sự tu hành”. Thường tác quán như thế, nói thật
ra, phép quán ấy chính là sáu hạng mục trong Hoàn Nguyên Quán
của Hiền Thủ đại sư, tức là “hiển nhất thể, khởi
nhị dụng, thị tam biến” (hiển lộ
một thể, khởi hai tác dụng, phô bày ba thứ
trọn khắp), sau đó là “tứ
đức, ngũ chỉ, lục quán”.
Người ấy “lâm mạng chung thời, tối
hậu sát-na” (lúc lâm chung, trong sát-na cuối cùng), “tối hậu” là lúc tắt
hơi, đă hết thở, thần thức ly khai thân
thể, khi ấy “nhất
thiết chư căn tất giai tán hoại” (hết
thảy các căn thảy đều hư hoại), đó
là ǵ? Nơi thân thể, sáu căn chẳng khởi tác
dụng, mắt không thể thấy, tai chẳng thể
nghe. “Nhất thiết chư
căn” là sáu căn, sáu căn mất tác dụng. V́ sao?
Thức đă rời khỏi, trong tâm quư vị, A Lại Da
đă rời khỏi, Mạt Na đă rời khỏi, ư
thức đă rời khỏi, năm thức trước cũng
đă rời khỏi thân thể này! Thức có tồn
tại hay không? Tồn tại, nó rời khỏi [thân
thể], nhưng nó tồn tại, thế tục chúng ta
gọi nó là “linh hồn”, linh hồn rời khỏi thân
thể. Khi con người chưa chết, linh hồn có
thể rời khỏi thân thể hay không? Đôi khi cũng
có, [hiện tượng ấy được] gọi là “linh hồn xuất khiếu”.
Thân thể người ấy chưa hoại, c̣n hít
thở, nhưng linh hồn tạm thời rời khỏi
thân thể trong một khoảng thời gian ngắn,
sẽ khởi lên tác dụng có năng lực lớn
hơn b́nh thường. Ĺa khỏi thân thể giống
như lơ lửng trong không trung, người ấy có
thể trông thấy thân thể của chính ḿnh, và cũng có
thể thấy động tác của hết thảy
mọi người chung quanh. Như vậy là linh hồn có
thể rời khỏi thân thể. Chúng ta nằm mộng,
mộng là linh hồn đang khởi tác dụng, chẳng
phải là thân thể, mà là linh hồn đang khởi tác
dụng.
Nói tới linh hồn th́ cũng
có sự hiểu lầm, hồn có, nhưng nó quyết
định chẳng linh! Nói là hồn th́ được,
chứ nó chẳng linh. V́ vậy, Khổng Tử chẳng
nói linh hồn, mà gọi là “du
hồn”. Quư vị đọc kinh Dịch: “Tinh khí vi vật, du hồn vi
biến”[1], dùng “du
hồn” để nói rất hay, chẳng phải
Khổng lăo phu tử không biết. V́ tốc độ
hoạt động của hồn rất nhanh, nó hết
sức không ổn định, giống như ư niệm
của chúng ta, niệm trước diệt, niệm sau
sanh, niệm này tiếp nối niệm kia, ở trong
trạng thái ấy, nên gọi “du
hồn” là chánh xác. Nó chẳng thông minh, nếu thật
sự linh th́ làm sao có thể vào trong ba ác đạo
đầu thai? Chẳng có đạo lư ấy! Vào trong ba ác
đạo đầu thai, vẫn chưa phải là mê
hoặc, điên đảo mà vào, lầm tưởng là
cảnh giới tốt đẹp, sau khi đến đó
bèn bị lừa, chẳng thoát ra được, t́nh h́nh
nói chung là như vậy. Chẳng thoát khỏi lục
đạo luân hồi, lục đạo là giới hạn.
Tu hành tốt đẹp, có thể sanh lên thiên đạo,
có thể đạt đến Dục Giới Thiên,
Sắc Giới Thiên, Vô Sắc Giới Thiên, nhưng
chẳng thoát ĺa lục đạo. Tu hành đến
một mức công phu nhất định, thật sự có
một chút giác ngộ, chưa phải là đại
triệt đại ngộ, thật sự có giác ngộ
trong Phật pháp, bèn thoát ly lục đạo. Đă thoát ly
lục đạo th́ chúng ta sẽ không gọi nó là linh
hồn nữa, mà thường gọi là “linh tánh”. Cách
gọi này cũng chánh xác, v́ linh tánh là chính ḿnh chân thật.
Linh tánh như chúng ta thường nói ấy thuộc về
bốn pháp giới, chẳng thuộc trong lục
đạo. Ở đây, [sách Chú Giải] cho biết,
người sắp mất, trong một sát-na, sát-na ấy là
lúc vô cùng mấu chốt, nên lâm chung trợ niệm hết
sức có lư!
Sáu căn đă hư hoại,
chẳng khởi tác dụng, “nhất
thiết thân thuộc tất giai xả ly” (hết thảy thân thuộc thảy
đều ĺa bỏ). Người nhà quyến thuộc chia
tay quư vị, cũng là duyên phận cùng nhau tụ hợp
của quư vị đă hết, sau này c̣n có thể tiếp
tục hay không? Điều ấy phụ thuộc duyên
phận, có lúc duyên phận vào lúc ấy đă hết. Do
vậy, con người phải giác ngộ, đức
Phật đă giảng rất hay về mối quan hệ
giữa con người với nhau, gồm bốn thứ duyên:
Báo ân, báo oán, đ̣i nợ, trả nợ, đều có lúc
kết thúc. Duyên ấy chẳng c̣n, dẫu gặp gỡ
cũng chẳng nhận ra. Do vậy, nó chẳng thật, là
giả. Chúng ta đến thế gian này, quan hệ với
mọi người là bốn thứ duyên phận ấy.
Sau khi học Phật, đă hiểu rơ, giác ngộ, phải
chuyển biến bốn thứ duyên ấy thành pháp duyên,
sẽ là tốt đẹp. Chuyển biến thành pháp duyên,
đó là tự độ, độ người. Trong tương
lai, quư vị thành Phật, những người hữu
duyên ấy bất luận ở chỗ nào, tụ tán trong
khắp pháp giới, hư không giới, họ gặp
khổ nạn, khẩn cầu, quư vị sẽ tiếp
nhận được làn sóng [ư niệm] ấy, họ có
duyên với quư vị mà! Sau khi quư vị nhận
được, chắc chắn sẽ lập tức
ứng, cảm ứng đạo giao. Chúng sanh có cảm,
Bồ Tát bèn ứng, quư vị sẽ đến giúp họ.
Đối với cảm
ứng, kinh Phật đă giảng rất rơ ràng, có bốn
h́nh thái khác nhau, hiển cảm hiển
ứng, minh cảm minh ứng, hiển cảm minh ứng,
minh cảm hiển ứng (cảm và ứng rơ rệt;
cảm và ứng ngấm ngầm; cảm rơ rệt, ứng
ngấm ngầm và cảm ngấm ngầm, ứng rơ
rệt), bốn thứ h́nh thái bất đồng. Trong
đời quá khứ, chúng ta đời đời kiếp
kiếp kết nhiều duyên với chư Phật, Bồ
Tát. Khi chúng ta gặp khó khăn, tâm và miệng cầu
Phật, Bồ Tát gia tŕ, cầu Phật, Bồ Tát phù
hộ, Phật, Bồ Tát có gia tŕ quư vị hay không? Gia tŕ!
Có khi gia tŕ, nhưng ta chẳng cảm nhận
được, đó là âm thầm gia tŕ quư vị. Quư
vị là Hiển [Cảm], v́ cầu Phật, Bồ Tát,
Phật rơ rệt, Bồ Tát âm thầm phù hộ quư vị,
[đó là Minh Ứng]. Học Phật, đối với
giáo lư đă đạt đến tŕnh độ nhất
định, tức là tŕnh độ lư giải, quư vị
sẽ có thể tin tưởng. Thuở đầu,
học rất khó, lúc mới học, hiển ứng th́
biết, chứ minh ứng (ứng âm thầm) kẻ
ấy chẳng biết, bảo là chẳng linh. Tuyệt
đối chẳng phải là không linh! V́ sao Bồ Tát
ứng mà chẳng hoàn toàn hiển ứng, lại c̣n có minh
ứng? Chúng ta phải hiểu điều này! Chư
Phật, Bồ Tát ứng, nhưng chẳng khởi tâm,
động niệm, chẳng có phân biệt, chấp
trước; nếu khởi tâm động niệm sẽ
biến thành phàm phu. Các Ngài chẳng thoái chuyển, vĩnh
viễn trụ trong Thường Tịch Quang.
Thường Tịch Quang ở chỗ nào? Không chỗ nào
chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng hiện
diện, nên cảm ứng đạo giao ngay lập
tức. Phật, Bồ Tát hiển ứng hay minh ứng
(ứng ngấm ngầm), đều do ư niệm và tâm thái của
chúng ta [cảm vời]. Kinh giảng rất hay, “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri
lượng” (thuận theo tâm của chúng sanh mà ứng
với khả năng lănh hội của họ), chẳng
do ư nghĩ của Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát
chẳng có ư nghĩ ǵ.
Ở đây, đối với
câu “nhất thiết thân thuộc
tất giai xả ly” (hết thảy thân thuộc
đều phải ĺa bỏ) chúng ta phải giác ngộ
đoạn kinh văn này, “thân
thuộc” là người đă kết duyên với ta trong
quá khứ. Sau khi học Phật, phải dùng phương
pháp trí huệ để biến họ thành pháp quyến,
đó là đúng. Nếu t́nh chấp rất sâu, nhất
định sẽ nẩy sanh chướng ngại đối
với sự tu hành của chúng ta. Không chỉ
chướng ngại quư vị chứng quả, mà c̣n
chướng ngại quư vị văng sanh, ngay cả nghĩa
lư của kinh giáo cũng bị nó chướng ngại.
Bị nó chướng ngại điều ǵ? Quư vị
hiểu sai, chẳng phải là nghĩa chân thật của
Như Lai. Nghĩa chân thật của Như Lai là Tánh
Đức, Tánh Đức từ trong tự tánh tự nhiên
lưu lộ. Quư vị vừa khởi tâm động
niệm, nó đă bị lệch lạc rồi. Do vậy,
đối với thân thuộc, có cần phải làm ra
vẻ thân ái như thế hay không? Phải! V́ sao? Nhằm
giáo hóa chúng sanh ngu muội, dạy cho họ luân lư,
đạo đức, khiến cho họ được
sống trong một xă hội trật tự, ban cho họ
cuộc sống hạnh phúc mỹ măn trên thế gian này, ban
cho họ điều ấy. Phật, Bồ Tát phải làm
như thế cho họ thấy, nêu gương hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ; đấy
là một cơ sở của ḥa hài, ổn định,
hỗ trợ hợp tác, đức hạnh trên thế gian.
Để dạy loại chúng sanh ấy, Phật, Bồ
Tát ắt phải làm như vậy, phải biểu
diễn, thực hiện. Nếu có cảm t́nh thật
sự sẽ là phàm phu. Bồ Tát biểu diễn giống
như đang diễn xuất trên sân khấu, biểu
diễn vô cùng giống như thật, quư vị chẳng
nh́n thấy sơ sót nào, người rất sáng mắt
mới có thể thấy rơ ràng, kẻ b́nh phàm chẳng
thể thấy rơ! Ngài biểu diễn hết sức
giống như thật th́ mới có thể cảm hóa chúng
sanh, mới có thể dạy họ trung, hiếu, liêm,
sỉ, mới có thể dạy dỗ chúng sanh, ư nghĩa là
như thế đó. Trên thực tế th́ sao? Trên thực
tế, tâm các Ngài vĩnh viễn “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác” như trong kinh đă nói, chúng ta phải
biết điều này. Nếu biết th́ chúng ta sẽ
biết học, “học” là tu học, chúng ta mới có
thể học giống hệt. Về mặt Sự,
sẽ giống như lục đạo phàm phu; về Lư,
bèn như Nhất Chân pháp giới, cả hai phía đều
giống, đó là chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trên
thế gian. Quư vị thấy điều đầu tiên mà
người thế gian khó bỏ nhất là thân t́nh, nên
đặt điều này lên đầu.
Lại xem điều kế
tiếp, “nhất thiết oai
thế tất giai thoái thất” (hết thảy oai
thế thảy đều lui mất). Trên thế gian, quư
vị có thế lực, “oai”
(威)
là quyền lực. Quư vị có quyền, có thế, làm
một vị quan to. Lúc mất, chẳng mang theo
được ǵ. Chẳng thể mang theo tước
vị, quyền lực, oai thế được!
Điều này cho quư vị biết chúng là giả, thân t́nh
là giả, mà oai thế cũng giả trất. “Phụ tướng đại
thần, cung thành nội ngoại, tượng mă xa
thặng, trân bảo phục tạng” (Phụ
tướng, đại thần, cung thành trong ngoài, xe voi, xe
ngựa, kho tàng quư báu), quư vị là đế vương,
dưới tay có Tể Tướng, đại thần, có
cung điện, có Tử Cấm Thành[2], hưởng thụ phước báo trên
thế gian. Xe voi, xe ngựa là phương tiện giao thông
của quư vị, “trân bảo
phục tạng” (kho tàng quư báu) là những thứ quư báu
do quư vị cất giữ. “Như
thị nhất thiết, vô phục tương tùy”
(hết thảy những thứ như thế chẳng c̣n
theo ta nữa), chẳng mang theo được ǵ. Câu này
bảo chúng ta phải thật sự giác ngộ, thật
sự minh bạch, phải nên hiểu rơ: Đối
với cái có thể mang theo được th́ dụng tâm,
cái ǵ không mang theo được, chớ nên bận ḷng
về nó; hễ quan tâm đến nó là sai mất rồi.
Dụng tâm sai lầm, thứ ǵ cũng chẳng mang theo
được! Cổ nhân dạy con cái như thế nào?
Tích công lũy đức cho con cháu, hết thảy của
cải trên thế gian chẳng cần để lại cho
chúng nó, con cháu của họ là con cháu tốt lành. V́ sao?
Họ biết tu phước, tương lai tiền
đồ vô lượng. Tổ tông có đức, tự
ḿnh biết tu phước, đức hạnh của
tổ tông sẽ phù trợ con cháu, đó là đúng!
Để lại của cải cho chúng nó, nếu là
hạng con cháu bất hiếu, sẽ bại hoại
dễ dàng. Chúng nó do có được quá dễ dàng, sẽ
chẳng biết quư trọng, coi thường, nên bị
bại hoại. Những gương xưa nay trong ngoài
nước giống như vậy rất nhiều, lịch
sử đă ghi chép, tin tức rất phong phú, nhất
định phải giác ngộ, những thứ ấy
chẳng thể mang theo được!
“Duy
thử nguyện vương, bất tương xả ly”
(chỉ có nguyện vương này là chẳng ĺa bỏ),
đây là thứ quư vị mang theo được, mang theo
được mười nguyện, quư vị có thể
mang thứ này theo được! Mười nguyện này
là Tánh Đức vốn có trong tự tánh; do mê mất
tự tánh, nên coi thường, bỏ sót, tư
tưởng và tâm hạnh đều trái phạm Tánh
Đức. Chúng ta biết lỗi, nay phải t́m lại Tánh
Đức; đă làm sai th́ phải “quay đầu là bờ”.
Tiếp đó, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “thường tùy Phật học”,
câu này trọng yếu. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt
đời v́ chúng ta thị hiện điều ǵ? Lăo nhân
gia thị hiện “quay đầu là bờ”, tích lũy công
khôn sánh, tích lũy đức to khôn sánh, giúp hết thảy
chúng sanh khổ nạn, khiến cho hết thảy chúng sanh
khổ nạn ĺa khổ, được vui. Thích Ca Mâu Ni
Phật chẳng cho tiền chúng sanh, cũng chẳng cho
họ vật dụng cần thiết. Thích Ca Mâu Ni Phật
cho chúng sanh điều ǵ? Giúp chúng sanh giác ngộ, đó là
thật, chẳng giả! Dùng phương pháp ǵ? Dùng giáo
học, nêu gương, thân làm, miệng dạy. Đích thân
làm cho quư vị thấy, miệng nói cho quư
vị nghe, khiến cho quư vị hiểu rơ, giác ngộ. V́
sao? Vô lượng vô biên nỗi khổ đều do mê sanh
ra. Do đă mê rồi nên quư vị nghĩ trật, nh́n
lầm, nói sai, làm quấy, quả báo làm sao tốt
đẹp cho được? Quả báo là lục
đạo luân hồi. Chỉ có thật sự giác ngộ,
thật sự hiểu rơ, vũ trụ là như thế nào,
nhân sinh ra sao, ta từ đâu đến, tương lai
sẽ đi về đâu, hiểu rơ toàn bộ, kẻ
ấy tự tại, chẳng mê nữa. Kẻ ấy
chẳng mê, nên chẳng nghĩ trật, chẳng nói sai,
chẳng làm quấy, hằng ngày tích lũy công đức,
hằng ngày tích lũy phước đức, phước
huệ song tu th́ mới có thể giải quyết vấn
đề.
Thích Ca Mâu Ni Phật giúp con
người giải quyết vấn đề từ
căn bản, chẳng phải là cành nhánh. Dẫu nói
đến “cầu”, trong
phần trước, tôi đă nói rất nhiều, trong các
buổi giảng, [chúng tôi thường nói] chúng ta muốn
cầu của cải, cầu thông minh trí huệ, cầu
khỏe mạnh, sống lâu, đức Phật đă
dạy quư vị phương pháp, chỉ cần quư vị
nương theo lư luận và phương pháp mà Ngài đă
dạy để thực hiện, chắc chắn sẽ
đạt được! “Phật
thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong
cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng), chẳng
phải là không cầu được. Pháp thế gian và
xuất thế gian không ǵ chẳng cầu được,
thật đấy, chẳng thể nghĩ bàn! Cầu
như thế đắc đại tự tại, trong tâm
cũng chẳng có chút gánh nặng nào, chẳng phải
bận ḷng. Cầu tài, của cải sẽ cuồn
cuộn đưa tới, nhưng phải có trí huệ;
nếu chẳng có trí huệ, dấy tâm tham tài, của
cải chẳng phải là thứ tốt đẹp, mang
lại tội nghiệp cho quư vị, như vậy là sai
mất rồi. V́ vậy, Phật pháp từ đầu
tới cuối luôn đặt trí huệ vào vị trí
thứ nhất. Có trí, lẽ đâu chẳng có của
cải? Có của cải, chưa chắc đă có trí
huệ. Có trí huệ, nhất định có của cải.
Do đó, quư vị chú tâm quan sát, trong thế gian và xuất
thế gian, chỉ có ḷng từ bi của Phật là chân
thật. Nương theo mười nguyện này tu tập,
suốt đời chúng ta không ǵ chẳng được
như nguyện, hưởng thụ quả báo chân thật
của chính ḿnh.
Nguyện vương này, “ư nhất thiết thời
dẫn đạo kỳ tiền, nhất sát-na trung tức
đắc văng sanh Cực Lạc thế giới” (trong
hết thảy thời, nó dẫn đường
đằng trước, trong một sát-na liền
được văng sanh thế giới Cực Lạc),
nếu mười nguyện trọn đủ, sanh về cơi
Thật Báo Trang Nghiêm của Tây Phương Cực Lạc
thế giới. “Đáo dĩ,
tức kiến A Di Đà Phật” (đă đến,
liền thấy A Di Đà Phật), thấy Báo Thân Phật,
chẳng phải là cơi Hữu Dư, chẳng ở trong
Đồng Cư, mà ở trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm,
thấy Báo Thân Phật. “Kỳ
nhân tự kiến sanh liên hoa trung, mông Phật thọ kư”
(người ấy tự thấy sanh trong hoa sen,
được Phật thọ kư), quư vị nói xem có vui
sướng lắm hay không? Cũng giống như nói
“đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,
gặp mặt A Di Đà Phật bèn thành Phật”, Phật
thọ kư cho người ấy. “Đắc
thọ kư dĩ” (đă được thọ kư),
thọ kư bèn thành Phật, “kinh
ư vô số bách thiên vạn ức na-do-tha kiếp”
(trải qua vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha[3] kiếp), đó là nói tới thời
gian, “phổ ư thập
phương bất khả thuyết bất khả
thuyết thế giới” (khắp trong bất khả
thuyết bất khả thuyết[4] thế giới), nói tới nơi
chốn. “Dĩ trí huệ
lực, tùy chúng sanh tâm nhi vi lợi ích” (dùng sức trí
huệ thuận theo tâm chúng sanh để tạo lợi
ích), tạo lợi ích ứng với khả năng
tiếp nhận [của chúng sanh], quư vị đến
mười phương thế giới giáo hóa chúng sanh. Giáo
hóa chúng sanh giống như Quán Âm, Văn Thù, Phổ
Hiền, nên dùng thân Phật để độ
được, bèn hiện thân Phật, nên dùng thân Bồ
Tát để độ được, bèn hiện thân
Bồ Tát. Thuận theo tâm chúng sanh mà hiện tướng,
hiện các thứ tướng bất đồng, có
thể đồng thời hiện vô lượng vô biên
thân trong các nơi chốn khác nhau. Phật, Bồ Tát
ứng hóa nhất định hoàn toàn tương ứng
với căn tánh của chúng sanh, tự nhiên tương
ứng. Tánh Đức có năng lượng to lớn
như vậy, pháp được nói sẽ tự nhiên
tương ứng; chúng sanh vừa tiếp xúc, vừa nghe
nói bèn khai ngộ. Chưa có năng lực như vậy,
làm sao có thể độ chúng sanh? V́ vậy, tu mười
đại nguyện vương văng sanh Cực Lạc
thế giới, thấy A Di Đà Phật, trí huệ, đức
năng, và tướng hảo trong tự tánh đều
khôi phục, đúng là con đường tắt để
Bồ Tát thành Phật.
“Năng
ư phiền năo đại khổ hải, bạt tế
chúng sanh, linh kỳ xuất ly, giai đắc văng sanh A Di
Đà Phật Cực Lạc thế giới” (có thể
ở trong biển cả khổ sở, phiền năo,
cứu vớt chúng sanh, khiến cho họ thoát khỏi,
đều được văng sanh thế giới Cực
Lạc của A Di Đà Phật). Cứu khổ cứu
nạn phải cứu đến cùng, không thể chỉ
cứu nửa vời, đưa những người
ấy đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, ai nấy đều viên măn. Lư luận và
phương pháp đưa đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới đều nằm trong
bộ kinh này, chúng ta chớ nên quên mất bộ kinh này, hăy
luôn nhớ câu kinh văn đầu tiên “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi
đức” (đều cùng tuân tu đức của
Phổ Hiền đại sĩ), câu này quá trọng yếu!
Do vậy, trong niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh trước kia, cư
sĩ Ngụy Mặc Thâm đă soạn bản hội
tập cho kinh Vô Lượng Thọ, và chính ông ta cũng
đem quyển kinh Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh
Nguyện Phẩm này ghép vào sau Tịnh Độ tam kinh,
gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh. Trong tương lai,
chư vị đồng tu thấy Tịnh Độ
Tứ Kinh liền biết Tứ Kinh là ǵ, chính là do Ngụy
Mặc Thâm thêm phẩm Hạnh Nguyện vào đó. Hợp
lư! “Hàm cộng tuân tu Phổ
Hiền đại sĩ chi đức”, thật sự
có lư. Đến đầu thời Dân Quốc, Ấn Quang
đại sư là một vị tổ sư trong thời
cận đại của Tịnh Độ Tông, lăo nhân gia
đem chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm
Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, chương này
không dài, chỉ có hai trăm bốn mươi bốn
chữ, c̣n ngắn hơn Bát Nhă Tâm Kinh. Bát Nhă Tâm Kinh là hai
trăm sáu mươi chữ, [c̣n chương Đại Thế
Chí Viên Thông là] hai trăm bốn mươi bốn chữ,
ghép vào sau Tịnh Độ Tứ Kinh, nay gọi là
Tịnh Độ Ngũ Kinh. Cần biết rằng:
Tịnh Độ vốn chỉ có ba kinh, bản thứ
tư là do cư sĩ Ngụy Mặc Thâm thêm vào, bản
thứ năm do Ấn Quang đại sư thêm vào. Chúng ta
nghĩ xem c̣n có thể thêm vào hay không? Không thể tăng
thêm, đă viên măn, quư vị có muốn tăng thêm cũng
không được, đă viên măn rồi. Trong chín ngàn
năm của thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ
khế hợp căn cơ của hết thảy chúng sanh,
năm bộ kinh này có thể phổ độ hết
thảy chúng sanh, giúp mọi người văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Thọ tŕ hoàn
toàn năm bộ rất tốt; thật ra, cả năm
bộ đều chẳng dài. Trong kinh luận Tịnh Tông,
dài nhất là bộ kinh Vô Lượng Thọ này, c̣n như
Đại Thế Chí Viên Thông Chương chỉ có hai
trăm bốn mươi bốn chữ, cũng là một
bộ, rất thích hợp với căn tánh của
người thời Mạt Pháp. Nếu nói theo kiểu Trung
Quốc, kinh luận Tịnh Tông quả thật là “giản yếu tường minh”,
tức là đơn giản, ngắn gọn, mà cũng
tỉ mỉ, rơ ràng, thích hợp nhất cho đại chúng
trong hiện tại và mai sau tu học.
“Hựu
kỳ trung đệ thập nguyện phổ giai hồi
hướng, hiển Phổ” (lại nữa, trong
ấy, nguyện thứ mười là hồi hướng
khắp cả, hiển thị ư nghĩa chữ Phổ),
hiển lộ chữ Phổ, “tùng
sơ (đệ nhất nguyện) lễ kính năi chí
đệ cửu nguyện hằng thuận chúng sanh”
(từ ban đầu (nguyện thứ nhất) là lễ
kính cho đến nguyện thứ chín là hằng thuận
chúng sanh), đều nhằm hiển thị chữ
Hiền trong đức hiệu của Phổ Hiền
Bồ Tát. “Cố tri thập
chủng đại nguyện, hiển Phổ Hiền
nghĩa. Hiền tắc thụ cùng tam tế, Phổ
tắc viên nhiếp vô dư” (nên biết mười
đại nguyện hiển thị ư nghĩa Phổ
Hiền. Hiền là theo chiều dọc rốt ráo ba
đời, Phổ là nhiếp trọn vẹn, chẳng
sót), chúng ta nói là “theo chiều ngang trọn khắp
mười phương”. Hiền là nói thời gian quá
khứ, hiện tại, tương lai; Phổ là nói
mười phương, tức bốn phương,
bốn góc, trên dưới, bao quát toàn bộ. “Thanh Lương Sớ vân, quả vô bất cùng viết Phổ, bất
xả nhân môn viết Hiền. Chánh hiển kinh trung Phổ
Hiền, tức Vị Hậu Phổ Hiền” (Thanh Lương Sớ giảng:
“Quả không ǵ chẳng cùng tột là Phổ, chẳng
xả hạnh tu nhân là Hiền. Điều này chỉ rơ
Phổ Hiền trong kinh chính là Vị Hậu Phổ
Hiền”), hai câu này giải thích rốt ráo [ư nghĩa
của danh hiệu] Phổ Hiền. Quả không ǵ chẳng
cùng tột, Cùng (窮) là đă đạt đến tột
bậc, chúng ta nói là “rốt ráo viên măn”, đó là ǵ? Hoàn Nguyên
Quán giảng “một Thể,
hai tác dụng, ba thứ trọn khắp”, là quả không
ǵ cùng tột. Khó có nhất là chẳng bỏ Nhân môn, Nhân môn
là ǵ? Tứ Đức, Ngũ Chỉ, Lục Quán là
những Nhân môn được nói trong Hoàn Nguyên Quán. Đă
thành Phật, đă chứng địa vị Diệu Giác
từ lâu, vẫn đến thị hiện trong nhân gian,
thị hiện ǵ? Nam, nữ, già, trẻ, các nghề
nghiệp, thị hiện làm kẻ sơ học, thị
hiện làm Tiểu Thừa. Chúng sanh thuộc căn tánh ǵ,
bèn thị hiện thuận theo căn tánh của chúng sanh
th́ mới có thể tiếp dẫn hết thảy chúng
sanh, mới có thể thỏa măn nhu cầu của chúng sanh
có căn tánh bất đồng. Chư Phật Như Lai
chẳng có mảy may ư nghĩ của riêng ḿnh, đó là “hằng thuận chúng sanh”.
Hễ có một tí ư nghĩ của riêng ḿnh sẽ chẳng
hằng thuận. Hằng thuận là trí huệ chân
thật, thiện xảo phương tiện, thần
thông, đạo lực vô tận, nhưng phàm phu không
biết. Điều này chỉ rơ Phổ Hiền
được nói trong kinh, tức là vị Bồ Tát
được nhắc đến trong kinh này, cũng
như Phổ Hiền được nói trong kinh Hoa Nghiêm
đều thuộc địa vị ǵ? Là Vị Hậu
Phổ Hiền, tức là đă thành Phật, thuộc
địa vị Diệu Giác. Chứng đắc
địa vị Diệu Giác, nhưng Ngài lui xuống
địa vị Bồ Tát để giúp đỡ chúng
sanh, v́ sao? Phật pháp là sư đạo, chúng ta phải
biết điều này. Thầy cao vời vợi bên trên,
học tṛ mang ḷng kính sợ thầy, vừa kính trọng
vừa sợ hăi, nên dạy lũ học tṛ chẳng
thuận tiện cho lắm, vậy th́ thầy làm sao?
Thầy thay đổi thân phận, mang thân phận bạn
học. Thân phận bạn học thuận tiện hơn
nhiều, nói sao cũng dám nói, nên dễ dạy. V́ thế,
Phật dạy chúng sanh chẳng dùng đến thân phận
Phật, lui xuống làm thân phận Bồ Tát, đó là
Vị Hậu Phổ Hiền.
“Diệc
tức Thiện Đạo đại sư sở vị,
tùng quả hướng nhân chi tướng” (cũng chính
là “tướng từ quả hướng về nhân”
như Thiện Đạo đại sư đă nói). Ngài
vốn đă chứng quả, nay trở về nhân
địa, quả là Phật, nhân là Bồ Tát, dùng thân
phận Bồ Tát để ứng hóa trên thế gian.
Bồ Tát như thế nào? Thưa quư vị, quá nửa
đều là Thập Tín Vị Bồ Tát, địa vị
không cao. Thập Tín rất gần chúng ta, nội dung
giảng dạy cũng là nội dung rất gần gũi,
dễ hiểu, chúng ta có thể tiếp nhận, nghe
hiểu, mà cũng thật sự có thể làm
được. Đó là một vị thầy giỏi.
Trong thời đại hiện tại, thánh giáo suy vi,
đại chúng b́nh phàm, nam, nữ, già, trẻ, các nghề
nghiệp đều chẳng học [thánh giáo]. Nếu quư
vị lấy sách vở Đại Thừa quá sâu
để dạy họ, về căn bản là họ nghe
không hiểu. Dẫu có hiểu, cũng hoàn toàn chẳng
ăn khớp với cuộc sống của họ, họ
chẳng dùng được! Điều đó có nghĩa là
ǵ? Kinh giáo chẳng khế cơ! Tuy khế lư, [tức là]
nói theo Lư chẳng sai, nhưng chẳng đúng với
căn cơ của chúng sanh. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm
là tài liệu dạy học cho nghiên cứu sinh, chúng sanh
hiện thời là căn cơ ǵ? Căn cơ Tiểu
Học. Quư vị lấy tài liệu học tập của
nghiên cứu sinh để dạy Tiểu Học, làm sao họ
có thể tiếp nhận cho được? Đó gọi
là khế lư, chẳng khế cơ. Đối với
những tài liệu để giảng dạy trong các
trường học hiện thời, người trẻ
tuổi học tập rất nhiều thứ, Tiểu
Học, Trung Học, Đại Học, quư vị thấy
trong ấy dạy những ǵ? Người học đông
đảo như thế, nhưng nói theo Phật pháp,
những tài liệu giảng dạy ấy khế cơ mà
chẳng khế lư, hoàn toàn chẳng ăn khớp với
giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả.
Học tṛ có thể học được một ít công
nghệ, có thể kiếm sống trong xă hội, nhưng
chẳng biết làm người! Giáo dục làm
người họ chưa được học, c̣n giáo
dục để làm việc họ học chẳng ít. Chúng
ta sống trong thời đại này, gặp gỡ căn
tánh như vậy, phải hiểu rơ. Sau khi hiểu rơ
mới biết dùng phương pháp ǵ để giúp họ
vừa khế cơ vừa khế lư.
Do vậy, lăo cư sĩ Hạ
Liên Cư xuất hiện trong thời đại này
chẳng phải là ngẫu nhiên, cụ hội tập kinh
Vô Lượng Thọ một lần nữa, chỉnh lư
thành bản hoàn thiện, bản hoàn thiện ấy do
hội tập năm bản dịch gốc hợp thành.
Trong quá khứ cũng có người làm, nhưng thành
quả có khuyết điểm, chẳng viên măn. Đầu
tiên là cư sĩ Vương Long Thư đời Tống
hội tập, lần thứ hai do ông Ngụy Mặc Thâm
hội tập trong niên hiệu Hàm Phong đời Thanh,
lần thứ ba do Hạ lăo cư sĩ hội tập vào
đầu thời Dân Quốc. Họ đều chẳng
phải là người b́nh phàm, mà toàn là hàng Bồ Tát
đầy bản lănh, thị hiện cho chúng ta thấy.
Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ ban cho chúng ta bản chú
giải này, dụng ư rất ư là sâu, v́ sao? Thời
Mạt Pháp hăy c̣n chín ngàn năm nữa, trong chín ngàn năm
ấy, Tịnh Độ là đương cơ, trong chín
ngàn năm ấy cần đến Phật pháp th́ cần
loại Phật pháp nào? Cần bộ kinh này, cần pháp
của Vô Lượng Thọ Phật. Chúng tôi cũng
hiểu rơ chân tướng sự thật này; v́ thế,
lần này chúng tôi chọn giảng bản chú giải
của cụ Hoàng Niệm Tổ để mọi
người cùng nhau học tập. Chúng tôi nhắm
đến mục đích hy vọng những thứ này
(bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ và bản
chú giải của cụ Hoàng) có thể lưu truyền
hậu thế, dành cho người đời sau tham
khảo, giúp họ học tập, giúp họ kiến
lập tín tâm, nguyện lực, y giáo phụng hành, văng sanh
Tịnh Độ, mục đích ở chỗ này.
Tiếp đó, “hựu Phổ Hiền kệ vân” (lại nữa,
bài kệ của Phổ Hiền có nói), trong bài kệ
của Phổ Hiền Bồ Tát: “Ngă kư văng sanh bỉ quốc dĩ, hiện tiền
thành tựu thử đại nguyện. Phổ nguyện
trầm nịch chư chúng sanh, tốc văng Vô Lượng
Quang Phật sát” (Tôi đă văng sanh cơi ấy rồi,
hiện tiền thành tựu đại nguyện này,
nguyện khắp chúng sanh đang ch́m đắm, mau sanh cơi
Phật Vô Lượng Quang). Bài kệ này “thị tức Phổ Hiền tự ngôn”, [tức
là] do Phổ Hiền Bồ Tát tự nói, “ngă kư văng sanh Cực Lạc quốc dĩ, thành
tựu sở phát chi thập chủng đại nguyện”
(ta đă văng sanh cơi Cực Lạc, thành
tựu mười thứ đại nguyện đă phát),
nói cách khác, viên măn mười thứ đại nguyện,
thế giới Cực Lạc hiện tiền. V́ sao?
Thế giới Cực Lạc do mười thứ
đại nguyện ấy kiến lập. Trong khi tu nhân, A
Di Đà Phật đă phát bốn mươi tám nguyện,
quư vị đem so với mười nguyện của
Phổ Hiền Bồ Tát, [sẽ thấy] hoàn toàn
tương ứng. Nói cách khác, mười nguyện
Phổ Hiền triển khai thành bốn mươi tám
nguyện của Phật Di Đà, bốn mươi tám
nguyện của Phật Di Đà cô đọng thành
mười nguyện Phổ Hiền. V́ vậy, tu hành viên
măn mười nguyện, thế giới Cực Lạc
tự nhiên hiện tiền. Do nguyên nhân nào? Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng, mười nguyện là
nhân, thế giới Cực Lạc là quả. Nhân đă viên,
quả đương nhiên sẽ trọn đủ,
đạo lư là như thế đó. Điều khó có là hai
câu kết thúc, “phổ
nguyện trầm nịch chư chúng sanh, tốc văng Vô
Lượng Quang Phật sát”, đó là hồi
hướng. Sau đó lại có “năi
dĩ thù thắng hạnh nguyện công đức, giai
tất hồi hướng chúng sanh đồng sanh Cực
Lạc” (dùng công đức thù thắng của hạnh
nguyện để hồi hướng cho chúng sanh ắt
đều cùng sanh về Cực Lạc). Bồ Tát thị
hiện trên thế gian, thực hiện mười
nguyện này, làm cho chúng ta thấy, với dụng ư ǵ?
Dụng ư nhằm ảnh hưởng chúng sanh trong thế
giới Sa Bà, khuyên họ hăy bắt chước. Thời
thời khắc khắc nhắc nhở, thời thời
khắc khắc khuyên dụ, hướng dẫn, mang ư
nghĩa ấy. V́ Phổ Hiền Bồ Tát thành Phật
đă lâu, đă sớm tu hành viên măn, Ngài thả chiếc bè
Từ, đến thế gian này, ứng hóa có thân phận
và kiến thức giống như chúng ta, làm cho chúng ta
thấy Ngài chịu tu, Ngài đă tu thành công. Chúng ta sẽ
lấy Ngài làm gương mẫu, làm điển h́nh, Ngài có
thể tu thành công, ta nghĩ ta nhất định cũng
có thể tu thành công. Từ bi đạt tới tột
bậc! Học rồi, đức của Phổ Hiền
sẽ từ trong tâm chính ḿnh lưu lộ, trong một
đời chúng ta, từng chút thiện hạnh nhỏ
nhặt đều chẳng v́ chính ḿnh, ta đều
hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, nguyện
hết thảy chúng sanh đồng sanh Cực Lạc. Đại
nguyện ấy không chỉ tương ứng với
Phổ Hiền, mà c̣n tương ứng viên măn với A Di
Đà Phật, niệm niệm chẳng v́ chính ḿnh, chỉ
có hết thảy chúng sanh.
“Phổ giai hồi hướng, năi thành
Phổ nghĩa” (“phổ giai
hồi hướng” nhằm thành tựu nghĩa Phổ), ư
nghĩa của chữ Phổ đă thành tựu. “Di Đà tứ thập bát
nguyện, nhiếp nhất thiết chúng sanh, thị
phổ giai hồi hướng chi bổn nguyên” (Bốn
mươi tám nguyện của Phật Di Đà nhiếp thọ
hết thảy chúng sanh là cội nguồn của phổ
giai hồi hướng). Nói cách khác, phổ giai hồi
hướng là bổn nguyện phổ độ hết
thảy chúng sanh đều chứng Phật quả rốt
ráo viên măn của A Di Đà Phật. Ở đây, cụ
Hoàng đă chỉ ra rất hay: Mười nguyện
của Phổ Hiền Bồ Tát đến cuối cùng là dùng
phổ giai hồi hướng để viên măn, chính là
bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật
được viên măn. Do vậy, “Phổ Hiền thập đại nguyện
vương, chánh thị Di Đà đại nguyện chi
đệ tam thập
ngũ nguyện chi quảng diễn” (mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền
chính là sự mở rộng của nguyện thứ ba
mươi lăm trong Di Đà đại nguyện).
Nguyện thứ ba mươi lăm là “nhất sanh bổ xứ nguyện”, ở đây,
lời nguyện đă được trích lục như
sau: “Sanh ngă quốc giả,
cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ
kỳ bổn nguyện vị chúng sanh cố, bị
hoằng thệ khải, giáo hóa nhất thiết hữu t́nh
giai phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành Phổ
Hiền đạo” (kẻ sanh về nước ta,
rốt ráo ắt đạt tới địa vị
Nhất Sanh Bổ Xứ, ngoại trừ người nào
do bổn nguyện v́ chúng sanh [mà khoan đạt đến
địa vị ấy], mặc áo giáp hoằng thệ,
giáo hóa hết thảy hữu t́nh đều cùng phát tín tâm,
tu hạnh Bồ Đề, hành đạo Phổ
Hiền). Ở đây, tôi không giảng đoạn kinh
văn này, trong phẩm thứ sáu ở phần sau, chúng ta
đọc đến đoạn kinh văn ấy sẽ
lại giảng giải tường tận.
“Do
thị khả kiến, hội trung thánh chúng, đa thị
tằng sanh Cực Lạc, phi hoằng thệ khải, du
hóa thập phương, trợ Phật hoằng hóa” (do
vậy, có thể thấy: Thánh chúng trong hội phần
nhiều đă từng sanh về Cực Lạc, khoác áo giáp
hoằng thệ, dạo khắp mười phương,
giúp Phật hoằng dương, giáo hóa), mấy câu này nói
hay quá! Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ
kinh này tại Linh Sơn, bộ kinh này và kinh Pháp Hoa
được giảng cùng một chỗ. Kinh Pháp Hoa
giảng tại núi Linh Thứu, bộ kinh này cũng
được giảng tại núi Linh Thứu, cùng một
nơi, thính chúng cũng giống như trong kinh Pháp Hoa,
đại tỳ-kheo chúng một vạn hai ngàn
người cùng nhóm họp, khác hẳn các pháp hội khác!
Trong các pháp hội khác, [kinh văn thường] chép là
một ngàn hai trăm năm mươi người, bộ
kinh này là một vạn hai ngàn người. Trong đại
chúng, có rất nhiều vị đă từng văng sanh thế
giới Cực Lạc, lại trở về. Thích Ca Mâu Ni
Phật giáo hóa chúng sanh ở nơi đây, các Ngài quay
lại, v́ sao quay lại? Chính v́ nguyện thứ ba
mươi lăm này, bổn nguyện của các Ngài là v́
chúng sanh. Đặc biệt có duyên phận với chúng sanh
trong thế giới này, bản thân các Ngài chưa chứng đến
Đẳng Giác, nhưng các Ngài quay lại giúp đỡ
hết thảy chúng sanh khổ nạn. Người như
vậy rất nhiều, trong hàng xuất gia đă có, mà trong
hàng tại gia lại càng nhiều. Tại gia độ
chúng sanh càng thuận tiện hơn, biến thành
người nhà, quyến thuộc, bằng hữu
đến độ quư vị, giúp quư vị sanh khởi
tín tâm đối với pháp môn Tịnh Tông, giúp quư vị hiểu
rơ ư nghĩa trong kinh, y giáo tu hành, giúp quư vị hành Phổ
Hiền đạo, tức là hành mười đại
nguyện vương.
Trong quá tŕnh thành lập Tịnh
Tông Học Hội, lần trước chúng tôi đă
thưa bày đại lược cùng quư vị, nhưng [bài
viết tŕnh bày] duyên khởi của Tịnh Tông Học
Hội được viết tại Thánh Hà Tây, Gia Châu (San
Jose, California) của nước Mỹ, tại một thị
trấn nhỏ tên là Khố Phách Đề Nặc (Cupertino).
Lúc đó, tôi ở bên ấy, viết ra duyên khởi của
Tịnh Tông Học Hội. Trong bài viết về duyên
khởi, chúng tôi nêu ra năm khoa mục mà người tu
Tịnh Độ nhất định phải nghiêm túc
học tập, thực hiện. Năm khoa mục ấy là
Tịnh Nghiệp Tam Phước, Lục Ḥa Kính, Giới -
Định - Huệ Tam Học, Lục Ba La Mật, và
Phổ Hiền Thập Nguyện, năm khoa mục như
vậy. Thời gian trôi qua rất nhanh, đă hơn hai
mươi năm rồi, có hiệu quả hay không?
Dường như hiệu quả chẳng rơ rệt.
Đồng học tại gia chẳng thể thực
hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo, đồng
học xuất gia chẳng thể thực hiện Sa Di Luật
Nghi, như vậy là văng sanh sẽ có vấn đề.
Chúng tôi cũng nghiêm túc phản tỉnh, v́ sao cổ nhân làm
dễ dàng dường ấy, mà người hiện
thời làm khó khăn dường ấy, làm không
được, nguyên nhân ở chỗ nào? Chúng tôi cũng
tốn không ít thời gian nghiên cứu vấn đề
này, đă t́m được kết luận. Trong
đời này, chúng ta chẳng vun bồi cội rễ giáo
dục, cho nên chẳng làm được Thập Thiện
Nghiệp. Do vậy, chúng tôi bèn nghĩ, trong giáo dục
truyền thống Trung Quốc, căn bản giáo dục
nào được vun bồi? Ba căn bản Nho, Thích,
Đạo. Căn bản của Nho là ǵ? Luân lư, Ngũ Luân,
Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức. Trong quá
khứ, lớp tuổi nhi đồng hết sức nghiêm
túc học tập những đức mục này. Không có
văn tự, nhưng cha mẹ dạy bảo, bậc
trưởng thượng trong nhà quư vị dạy dỗ,
thân thích, bằng hữu dạy bảo, thậm chí
người xa lạ chẳng quen biết, trông thấy quư
vị phạm quy củ cũng đều chỉ trích,
dạy dỗ, được dưỡng thành từ
nhỏ. Trẻ nhỏ thấy nhiều, nghe nhiều,
đúng là “tai nghe, mắt nhiễm, trở thành thói quen”,
chính ḿnh làm chuyện quấy, bị kẻ khác chỉ trích,
bèn tuân phục, cúi đầu, chẳng dám căi lại. Chúng
tôi nghĩ đến vấn đề này, nghĩ sau khi nhà
Măn Thanh vong quốc, xă hội loạn động bất
an, măi cho đến hiện tại vẫn chẳng an
định. Vun bồi căn bản giáo dục đều
bị coi nhẹ, sơ sót, không chỉ chẳng nh́n
thấy, mà cũng chẳng ai nói tới, điều này rất
đáng sợ!
Do vậy, trong lúc nhiều
người đang nói tới văn hóa truyền thống
của Trung Quốc, chúng tôi mới nghiêm túc đưa ra ba
căn bản của Nho, Thích, Đạo, Đệ Tử
Quy của Nho gia, Cảm Ứng Thiên của Đạo gia
và Thập Thiện Nghiệp Đạo của Phật gia.
Quả thật, trong thời quá khứ, người Trung
Quốc từ nhỏ đều biết đến ba
căn bản này, đều được giáo dục nên
học Phật rất dễ dàng. Mở kinh bổn ra xem,
ta thấy “thiện nam tử,
thiện nữ nhân”, chúng ta chẳng xa lạ chút nào, quay
đầu nghĩ lại, đại khái là nói đến
chúng ta, ta cũng đáng thuộc trong số đó. Thập
Thiện Nghiệp Đạo đă làm được, quư
vị là thiện nam tử, thiện nữ nhân, Thập
Thiện Nghiệp Đạo không làm được, nhân
quả trong Cảm Ứng Thiên không biết, quư vị
chưa được giáo dục. Có cơ sở Nho và
Đạo, chỉ cần tiếp xúc Thập Thiện
Nghiệp Đạo liền hiểu rơ, có thể thực
hiện. V́ vậy, trong Phật pháp, bất luận
xuất gia hay tại gia, nghiêm túc học tập, lẽ nào
không thành tựu! Hiện thời, những thứ này
bị coi thường, bỏ sót, chẳng có nữa,
chẳng có th́ sẽ như thế nào? Người ta
biết làm việc, nhưng chẳng biết làm
người! Phương pháp làm việc đă học,
nhưng quy củ làm người chẳng học, con
người chẳng biết làm người, xă hội
sẽ động loạn. Hiện thời, muốn xă
hội an định, muốn xă hội ḥa hài, ngoại
trừ t́m lại những thứ của tổ tiên,
chẳng có biện pháp nào tốt đẹp hơn. Do
vậy, chúng tôi vẫn đề xướng Đệ
Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp
Đạo, hàng xuất gia c̣n có thêm Sa Di Luật Nghi. Chúng ta
nghĩ xem trong số những người dạy các môn này
trong hiện thời, có ai từ thế giới Cực
Lạc trở lại hay không? Tôi nghĩ chắc chắn là
có! Những vị Pháp Thân Bồ Tát ấy tới thế
gian thị hiện ǵ vậy? Thị hiện làm giáo viên
Tiểu Học; thật đấy, chẳng giả
đâu! Đấy là ba mươi hai ứng thân của Quán
Thế Âm Bồ Tát, nên dùng thân ǵ để độ
được liền hiện thân ấy, chắc chắn
là như vậy. “Tằng sanh
Cực Lạc, phi hoằng thệ khải, du hóa thập
phương, trợ Phật hoằng hóa” (từng sanh
Cực Lạc, khoác giáp hoằng thệ, du hóa mười
phương, giúp Phật hoằng dương, giáo hóa), chúng
ta chớ nên khinh dễ, phải tôn trọng, phải
lễ kính.
“Như
thị triển chuyển giáo hóa, triển chuyển
độ thoát” (lần lượt giáo hóa, lần
lượt độ thoát như vậy), đó là pháp luân
thường chuyển, chúng ta nghiêm túc nỗ lực
dạy người khác, người khác học
được, lại đi dạy kẻ khác nữa.
Đặc biệt là trong thời đại hiện
tiền, những nơi làm mẫu quan trọng hơn
bất cứ điều ǵ khác. Thiếu những nơi ấy,
tuy chúng ta có dạy, tốn thời gian nhiều đến
đâu đi nữa, hao tốn tinh thần đến
đâu đi nữa, hiệu quả chẳng rơ rệt, v́
sao? Người khác chẳng nh́n thấy. V́ thế,
nhất định phải có chỗ thí nghiệm, thực
hiện trong một phạm vi nhỏ, trong một khu
vực nhỏ, hoặc một thị trấn nhỏ,
thực hiện một trăm phần trăm, có một
nơi như thế. Tôi tin tưởng mọi
người chúng ta thật sự phát tâm, Tam Bảo gia tŕ,
nguyện vọng ấy sẽ được thực
hiện, sẽ xuất hiện. Dạy bên ngoài, quư vị
có tin hay không? Quư vị đến nơi ấy mà xem, hăy
đến tham quan. Sau khi họ thấy, chẳng c̣n hoài
nghi nữa, cũng sẽ thật sự làm. Có thể sanh
ra hiệu quả hay không, điều này rất trọng
yếu! Hiện thời có rất nhiều người
đang tu phước trong Phật môn, dựng chùa to
miếu lớn, có lợi ích hay không? Trước đây,
thầy Lư c̣n tại thế, thường bảo chúng tôi: “Hữu miếu vô đạo,
bất năng hưng giáo” (Có chùa, nhưng chẳng có
đạo, giáo pháp chẳng thể hưng thịnh). Lăo
nhân gia cả đời không coi trọng đạo tràng,
nên đạo tràng rất sơ sài, cụ coi trọng
bồi dưỡng nhân tài. Hiện thời, chúng ta không
chỉ phải coi trọng bồi dưỡng nhân tài, mà
c̣n phải coi trọng những tiểu khu gương
mẫu. Tại Tam Trọng, Đài Loan có một con phố,
có hai vị thầy vất vả lo toan tại đó
suốt mười ba năm, rất có thành tích, nay đă
được chánh phủ công nhận. Người
thật sự có tâm, thật sự là bậc Bồ Tát
từ Tây Phương Cực Lạc thế giới
trở lại, thay A Di Đà Phật làm chuyện tốt
đẹp, thật sự cứu khổ, cứu nạn,
cứu giúp hết thảy chúng sanh, lập ra những
chỗ làm gương. Đó là sự nghiệp Bồ Tát,
sự nghiệp thần thánh, sự nghiệp nào trong
thế gian đều chẳng thể sánh bằng! Trong quá
khứ, chúng tôi đă thực hiện tại trấn Thang
Tŕ của huyện Lô Giang ba năm, nay đă chuyển
đến nơi đây. Ba năm ở Lô Giang là giáo
dục toàn dân, làm thành công, dọn sang bên này, tôi chú trọng
bồi dưỡng giáo viên, làm cơ sở huấn
luyện thầy tṛ. Trong tương lai có duyên phận
như vậy, tiểu trấn, tiểu khu nào muốn làm,
chúng tôi sẽ có giáo viên đến dạy; không có thầy
đến dạy sẽ chẳng thành công. Do vậy, chúng
tôi đọc đến đoạn này, nghĩ đến
những vị thầy tốt đẹp ấy, thật sự
thực hiện rồi hy sinh, dâng hiến, vốn là từ
thế giới Cực Lạc trở lại, trong quá
khứ đă đến thế giới Cực Lạc, nay
giúp Phật giáo hóa chúng sanh, xoay vần giáo hóa, xoay vần
độ thoát. “Thị cố
kinh trung vô lượng vô biên nhất thiết Bồ Tát,
giai tuân Phổ Hiền đại sĩ chi đức”
(V́ thế, vô lượng vô biên hết thảy các vị
Bồ Tát trong kinh đều tuân theo đức của
Phổ Hiền đại sĩ). Có phải là từ
thế giới Cực Lạc quay lại hay không? Từ câu
nói ấy, quư vị sẽ thấy được tin
tức. Câu nào vậy? “Giai tuân
Phổ Hiền đại sĩ chi đức”. Nếu
từ Tây Phương Cực Lạc thế giới
đến, người ấy chắc chắn có tập
khí này, không cần ai phải dạy, chính người
ấy thể hiện lễ kính chư Phật, xưng tán
Như Lai, quảng tu cúng dường, sám trừ nghiệp
chướng, hiển thị ra, tự nhiên làm cho quư vị
thấy, thật đấy, chẳng giả đâu!
Chúng ta lại xem tiếp
đoạn dưới: “Cụ
túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất
thiết công đức pháp trung. Thượng lưỡng
cú sơ tán chư đại sĩ chi thật đức” (Đầy đủ
vô lượng hạnh nguyện, an trụ trong hết
thảy các pháp công đức. Hai câu trên khen ngợi
thật đức của Đại Sĩ). Hai câu này nói chung
về các vị đại Bồ Tát, họ có công
đức chân thật, trọn đủ vô lượng
hạnh nguyện. Vô lượng hạnh nguyện là
mười đại nguyện vương
được mở rộng, khuếch trương,
giống như các vị đại Bồ Tát đă mở
rộng Thập Thiện Nghiệp Đạo thành tám
vạn bốn ngàn tế hạnh. Tám vạn bốn ngàn
tế hạnh của Bồ Tát quy nạp thành Thập
Thiện Nghiệp, ở đây cũng là mười
điều của Phổ Hiền, mở rộng thành vô
lượng vô biên hạnh nguyện. “Vô lượng giả, kỳ đa, kỳ
đại, vô pháp xứng lượng, cố danh vô
lượng” (vô lượng là nhiều, lớn,
chẳng có cách nào đo lường, nên gọi là vô
lượng). Trong Nhiếp Đại Thừa Luận Thích
có nói, Thích (釋) là giải thích, “bất
khả dĩ thí loại đắc tri vi vô lượng”
[nghĩa là] chẳng có cách nào dùng tỷ dụ để
sánh ví mà ḥng biết được th́ gọi là “vô
lượng”. Giải thích hai chữ này! “Hạnh vị Lục Độ, Tứ Nhiếp
đẳng đại hạnh” (“Hạnh” là các
đại hạnh như Lục Độ, Tứ
Nhiếp v.v...). Bồ Tát biểu hiện cho chúng ta
thấy, nhằm khẳng định những điều
ấy, làm cho chúng ta xem. Bọn phàm phu chúng ta có tâm hạnh
tương phản, Bồ Tát thích bố thí, phàm phu ưa
tích trữ. [Phàm phu] tích trữ những thứ không mang theo
được, c̣n Bồ Tát th́ thứ ǵ không mang theo
được đều bố thí hết. Phàm phu
chuộng làm ác, Bồ Tát chuộng tŕ giới. Bố thí
độ keo tham, tŕ giới độ ác nghiệp,
nhẫn nhục độ sân khuể, tinh tấn
độ giải đăi, Thiền Định độ
tán loạn, trí huệ độ ngu si, Bồ Tát dùng sáu
điều này để tự độ, độ
người khác.
Tứ Nhiếp Pháp là
phương thức tiếp dẫn chúng sanh, nói theo cách bây
giờ, chúng là các cách thức để Bồ Tát giao
tiếp công chúng. Bồ Tát tiếp dẫn chúng sanh như
thế nào? Ngài có bốn phương pháp:
1) Phương pháp thứ
nhất là Bố Thí. Bố thí ở đây khác với
Bố Thí trong Lục Độ, bố thí ở đây là
ǵ? Mời khách nhiều, tặng quà nhiều, người
thế gian chúng ta thường nói là “lễ đa, nhân bất quái” (lễ nhiều,
người ta chẳng trách). Bồ Tát thật sự dùng
phương pháp như thế, tặng quà nhiều, mời
khách nhiều, tạo dựng cảm t́nh. Sau khi đă
tạo dựng quan hệ tốt đẹp rồi, sẽ
dễ nói chuyện.
2) Ái Ngữ là lời lẽ
tốt đẹp thật sự quan tâm, thuốc hay
đắng miệng, thật sự có thể nói lời
chân tâm với họ.
3) Lợi Hành là hành vi của
Bồ Tát nhất định có lợi cho chúng sanh.
4) Cuối cùng là Đồng
Sự, hết sức lỗi lạc, hằng thuận chúng
sanh, tùy hỷ công đức. Bồ Tát có trí huệ, Bồ
Tát có thần thông. Dẫu quư vị có ác hạnh, Ngài
vẫn có thể tùy thuận, trong tùy thuận sẽ
uốn nắn quư vị, khiến cho quư vị giác ngộ,
quay đầu là bờ.
Trong Hoàn Nguyên Quán, Hiền
Thủ quốc sư đă giảng Tứ Đức,
đó là Tánh Đức, là đại căn đại
bổn của đức hạnh Bồ Tát. Giống
như bổn nguyện của A Di Đà Phật và bổn
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, đó là
đại căn đại bổn. Thứ nhất là “tùy duyên diệu dụng”,
thứ hai là “oai nghi có pháp
tắc”, oai nghi có pháp tắc là nêu gương tốt cho
người ta thấy, chớ nên nêu gương xấu, phải
nêu gương tốt. Khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ, tạo tác đều phải nêu bày dáng vẻ
tốt đẹp, dáng vẻ ấy tương ứng
với Tánh Đức, tại Trung Quốc chắc chắn
phải là dáng vẻ tốt đẹp tương ứng
với hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm,
sỉ, nhân ái, ḥa b́nh. “Nhu ḥa
chất trực”, đây là thái độ biểu
hiện trong tiếp xúc với đại chúng, một
niềm hoan hỷ, tâm địa chân thành, biểu lộ ra
ngoài một niềm hoan hỷ. “Đại
chúng sanh khổ” (chịu khổ thay cho chúng sanh), chúng ta
có thể biểu diễn đại nguyện chịu
khổ thay cho chúng sanh rất khá, có thể làm rất
tốt, thật sự giúp nhiều chúng sanh quay đầu
là bờ. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta
học tập tới chỗ này!
Tập
100
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang một trăm mười sáu, xem ḍng thứ năm từ
dưới đếm lên, chúng ta đọc từ chỗ
ấy:
“Cụ
túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất
thiết công đức pháp trung. Thượng lưỡng
cú sơ tán chư đại sĩ chi thật đức.
Vô lượng giả, kỳ đa, kỳ đại, vô
pháp xứng lượng” (Đầy đủ vô
lượng hạnh nguyện, an trụ trong hết
thảy các pháp công đức. Hai câu này khen ngợi thật
đức của Đại Sĩ. Vô lượng là nhiều,
lớn, chẳng có cách nào đo lường), nói không
được,“cố danh vô
lượng. Nhiếp Đại Thừa Luận Thích vân:
Bất khả dĩ thí loại đắc tri” (nên
gọi là vô lượng. Nhiếp Đại Thừa
Luận Thích nói: “Chẳng thể dùng thí dụ, so sánh
để biết được”). [Thông thường], do
thí dụ sẽ có thể biết được, nhưng
[ở đây] vẫn chẳng có cách nào thí dụ sao cho thích
hợp nên gọi là Vô Lượng. Vô lượng hạnh
nguyện, “Hạnh vị
Lục Độ, Tứ Nhiếp đẳng đại
hạnh” (Hạnh là các đại hạnh như Lục
Độ, Tứ Nhiếp v.v...), trong phần trước
chúng tôi đă tŕnh bày rồi. “Nguyện
vị Tứ Hoằng Thệ dữ thập đại nguyện
đẳng thắng nguyện” (Nguyện là các nguyện
thù thắng như Tứ Hoằng Thệ Nguyện và
mười đại nguyện v.v...), Tứ Hoằng
Thệ Nguyện là tổng nguyện (nguyện chung) của
hết thảy chư Phật, Bồ Tát trong giáo pháp
Đại Thừa, chỉ nói bốn câu, nhưng bốn
câu đă bao gồm toàn bộ vô lượng đại
nguyện trong lúc tu nhân của hàng Bồ Tát. Nguyện
thứ nhất là “chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ”, nói theo cách bây giờ,
chữ Độ (度) này là giúp đỡ, góp sức thành
tựu họ. Chúng sanh vô lượng vô biên, trong kinh giáo
đă nói: “Phật thị môn
trung, bất xả nhất nhân” (trong cửa nhà Phật,
chẳng bỏ một ai). Chắc chắn Phật, Bồ
Tát chẳng bỏ qua bất cứ một ai, bất cứ
chúng sanh nào, v́ sao? Các vị Bồ Tát biết hết
thảy chúng sanh và chính ḿnh là một Thể, so với
“một nhà” c̣n thân thiết hơn. Một chúng sanh bị
khổ, chịu nạn, há có thể bỏ qua? Đă là
một chúng sanh cũng chẳng bỏ qua, hiện thời
chúng sanh khổ nạn nhiều ngần ấy, v́ sao
Phật chẳng độ họ? Chúng ta nhất
định phải hiểu điều này, trong kinh đă
có giải thích: “Tâm, Phật,
chúng sanh, tam vô sai biệt” (tâm, Phật, chúng sanh, ba
thứ chẳng sai biệt). Ư nghĩa của “ba thứ
chẳng sai biệt” rất rộng, chẳng phải chỉ
có một ư nghĩa. Cách giải thích thứ nhất là ba
điều ấy b́nh đẳng, một mà ba, ba mà
một, chúng sanh, Phật, tâm là một chuyện, chẳng
phải là ba chuyện, mà là một, chẳng phải là ba.
Cách giải thích thứ hai là sức của ba thứ
ấy bằng nhau. Nghiệp lực của chúng sanh,
nguyện lực của chư Phật và sức mạnh
của tâm là b́nh đẳng. Tâm là Thể, Phật và chúng
sanh đều là tác dụng, một đằng là tác
dụng chánh diện, Phật là chánh diện, một
đằng là tác dụng phản diện, chúng sanh là tác
dụng phản diện. Cũng có thể nói, Phật là tác
dụng thiện, chúng sanh là tác dụng bất thiện,
sức mạnh bằng nhau. Do vậy, chúng sanh có cảm,
Phật bèn có ứng. Tội nghiệp của chúng sanh
chẳng tiêu trừ, sức mạnh của Phật
chẳng tăng thêm, sức mạnh của tâm cũng
chẳng tăng thêm. Tâm, Phật, chúng sanh, nghiệp lực
bất thiện của chúng sanh ắt phải tiêu trừ
th́ sức mạnh của Phật mới giúp
được. Tâm chẳng có thiện hay ác, nó là bản
thể, nhưng bất luận là chân hay vọng,
đều là từ Thể khởi lên tác dụng. Tâm tùy
duyên, có thể thuận theo duyên nhiễm hay tịnh; chúng
sanh tạo tội nghiệp, nó bèn thuận theo nhiễm
duyên hiện ra lục đạo luân hồi, hiện ra
quả báo trong tam đồ, nó tùy duyên. Chư Phật,
Bồ Tát đoạn ác, tu thiện, tích công, lũy
đức, nó cũng tùy duyên. Thế giới Hoa Tạng là
tâm tùy duyên, thế giới Cực Lạc cũng là tâm tùy
duyên, nó có thể thuận theo duyên nhiễm hay tịnh,
chưa hề có khởi tâm động niệm. V́ thế,
đức Phật mới nói: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, chữ “tâm tưởng” chỉ ư
niệm của chúng ta, người hiện thời gọi
là “tâm thái”, nó làm chủ,
chủ tể thiên biến vạn hóa, có ư nghĩa như
thế đó.
Do vậy, nguyện thứ
nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là bổn
nguyện độ chúng sanh, là thật, chẳng giả. Quả
thật, trong cửa nhà Phật chẳng bỏ một ai.
Phật, Bồ Tát đối với hết thảy chúng
sanh b́nh đẳng, nghiệp chưa tiêu trừ, bèn giúp
kẻ ấy tiêu trừ nghiệp chướng. Tiêu trừ
nghiệp chướng lại chẳng thể miễn
cưỡng, phải hằng thuận chúng sanh, khi nào chúng
sanh giác ngộ, ngộ có tiểu ngộ và đại
ngộ, đẳng cấp khác biệt rất nhiều.
Đối với chúng sanh chưa giác ngộ, Bồ Tát luôn
dùng thiện xảo phương tiện giúp họ giác
ngộ. Sau khi họ bắt đầu giác ngộ, vẫn
dùng thiện xảo phương tiện giúp họ nâng cao,
hy vọng họ giác ngộ càng sâu rộng hơn măi cho
tới lúc viên măn. Chúng ta thường gọi viên măn là “thành
Phật”, thành Phật là viên măn, đấy là nguyện
độ chúng sanh. Nói đúng ra, [Tứ Hoằng Thệ
Nguyện] thật sự là nói đến một nguyện
này, ba nguyện sau là để hoàn thành chuyện này. Ngày nay,
chúng ta cũng phát nguyện này, nguyện đă phát, nhưng
chẳng có năng lực giúp chúng sanh; v́ thế, ba
nguyện sau nhằm thành tựu chính ḿnh. Quư vị thấy:
Dạy người khác là dạy chính ḿnh trước,
độ chúng sanh cũng là độ chính ḿnh
trước. Chưa độ được ḿnh mà có
thể độ người, chẳng có lẽ ấy!
Kinh Phật thường nói “chẳng có đạo lư
ấy”. Nếu quư vị muốn giúp người khác,
nhất định phải thành tựu chính ḿnh
trước. Do vậy, điều thứ hai là “phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn”, phải đoạn trừ tập khí
phiền năo, đoạn trừ là ǵ? Thành tựu
đức hạnh của chính ḿnh, điều này rất
trọng yếu. Xưa nay, trong ngoài nước, trong
sự giáo dục của thánh hiền, đức hạnh luôn
được đặt hàng đầu. Nếu
người nào chẳng có đức hạnh, kẻ
ấy ngu si chút nào càng tốt chút ấy, do chẳng tạo
tội nghiệp to lớn. Nếu kẻ ấy thông minh,
hắn sẽ hại người, làm hại rất
nhiều. V́ thế, giáo dục phẩm đức
được đặt hàng đầu!
Phẩm đức đă thành
tựu, nguyện kế tiếp là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”,
đây là nói tới yêu cầu phải có tri thức và trí
huệ. Thiếu tri thức, thiếu trí huệ, chẳng
thể giúp ḿnh, mà cũng chẳng thể giúp người.
Nguyện cuối cùng, trí huệ và học thuật
đều phải đạt đến rốt ráo viên măn,
quư vị mới có thể phổ độ chúng sanh. Cho nên
nguyện cuối là “Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”, thành
Phật là giống như hiện nay chúng ta đi học
đạt được học vị cao nhất là
học vị Tiến Sĩ. Phật,
Bồ Tát, A La Hán là các danh xưng học vị trong
Phật môn; học vị cao nhất là Phật Đà,
học vị hạng hai là Bồ Tát, học vị
hạng ba là A La Hán. A La Hán đă giác ngộ, tiểu
ngộ, Bồ Tát đại ngộ, Phật là đại
triệt đại ngộ, chuyện là như thế
đó. Chúng ta phải biết kiến thức Phật
học thông thường này. Do vậy, biết chúng ta
phải phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện này, v́ sao?
Nguyện là động lực. Tập khí phiền năo
của chúng ta rất nặng, v́ sao phải đoạn
phiền năo? Chẳng phải v́ chính ḿnh, mà v́ giúp đỡ
hết thảy chúng sanh, sức mạnh ấy rất
lớn! Ta đoạn phiền năo sớm một ngày, sẽ
giúp chúng sanh sớm một ngày, chúng sanh được
lợi ích sớm một ngày, chẳng phải v́ chính ḿnh.
V́ chính ḿnh th́ lười biếng một chút vẫn
chẳng sao, ta chậm một hai năm, hoặc chậm
trễ một hai kiếp chẳng sao! Quư vị thấy
chúng sanh khổ nạn nhiều ngần ấy, há nỡ
ḷng nào! V́ thế, đây là động lực đại
từ đại bi thúc đẩy, nguyện lực thúc
đẩy, hy vọng chính ḿnh ngay lập tức buông tập
khí phiền năo xuống.
Sau khi buông xuống mới có
thể thành tựu pháp môn, trí huệ mới có thể thành
tựu. Nếu chẳng buông tập khí phiền năo
xuống mà quảng học đa văn th́ những ǵ quư
vị học tập toàn là tri thức, chẳng phải là
trí huệ, trí huệ và tri thức khác biệt ở
chỗ này. Trong tri thức chẳng có tập khí phiền
năo, nó sẽ là trí huệ; nếu vẫn mang tập khí
phiền năo th́ là tri thức. Bởi lẽ, tri thức
chỉ có thể giải quyết vấn đề cục
bộ, chắc chắn c̣n có hậu quả! Trong xă hội
hiện thời, chúng ta thấy rất rơ ràng! Có
người nói xă hội hiện thời là xă hội tri
thức bùng nổ, chẳng sai chút nào, ai nấy đều
đang cầu tri thức, nhưng chẳng biết
đến luân lư, đạo đức. Cũng có
người nói con người hiện thời biết làm việc,
nhưng chẳng biết làm người, lời này có lư!
Không biết hiếu thuận với cha mẹ, không
biết tôn kính tôn trưởng, thậm chí kẻ làm cha
mẹ c̣n trẻ tuổi chẳng biết dạy dỗ con
cái ra sao, đấy là tập khí phiền năo chưa
đoạn. Trung Quốc từ xưa tới nay, bất
luận là giáo dục gia đ́nh (trước đây tư
thục là gia giáo), giáo dục trong nhà trường, hay trong
xă hội, đều đặt luân lư, đạo
đức vào vị trí hàng đầu. Luân lư, đạo
đức là “phiền năo vô
tận thệ nguyện đoạn”, xếp nó vào
vị trí thứ nhất. Người thiếu tri thức
chẳng sao, biết làm người, biết hiếu,
đễ, trung, tín, biết lễ nghĩa, liêm, sỉ, nhân
ái, ḥa b́nh, kẻ ấy là người tốt, chẳng
tạo tội nghiệp. Dẫu kẻ ấy chẳng có cống
hiến cho quốc gia, xă hội, nhưng chẳng gây
tổn hại, quư vị nghĩ xem: Giáo dục rất
trọng yếu! Sau khi đă có cơ sở ấy, lại
cầu tri thức, tri thức là trí huệ. Trong Phật
pháp gọi đoạn sạch tập khí phiền năo là
Căn Bản Trí, trí huệ của quư vị có căn
bản rồi, giáo dục luân lư, đạo đức,
nhân quả là căn bản; toàn bộ tri thức do cầu
được sẽ biến thành trí huệ, gọi là
Hậu Đắc Trí. Tác dụng của Hậu Đắc
Trí là thiện xảo phương tiện. Chẳng dùng trí
huệ ấy để cầu lợi ích cho chính ḿnh, mà
dùng để mưu cầu phước lợi cho hết
thảy chúng sanh, đấy là chuyện tốt đẹp;
nhưng nếu chưa thành Phật, đức hạnh và
trí huệ quư vị sẽ chưa đạt tới viên
măn. Chưa đạt tới viên măn, quư vị độ
chúng sanh sẽ không viên măn, v́ sao? Quư vị chỉ có thể
giúp kẻ có phước huệ thấp hơn quư vị,
quư vị có thể giúp họ, chứ đối với
kẻ có phước huệ cao hơn chính ḿnh, quư vị
sẽ chẳng thể giúp được. V́ thế, phát
nguyện muốn thành Phật, thành Phật có thể giúp
Đẳng Giác Bồ Tát, chỉ có thành Phật mới có
thể giúp họ. Chưa thành Phật, không giúp được
Đẳng Giác Bồ Tát. Quư vị là Đẳng Giác
Bồ Tát, không thể giúp Đẳng Giác Bồ Tát. Nếu
quư vị là Thập Địa Bồ Tát th́ kể cả
Thập Địa lẫn Đẳng Giác quư vị
đều chẳng giúp được! Đó là đại
ư của Tứ Hoằng Thệ Nguyện, nhất định
phải cầu đạt đến rốt ráo viên măn,
người Trung Quốc nói “hoàn mỹ” th́ hoàn mỹ là
chẳng khuyết điểm, đạt đến
Phật Đà mới chẳng có khuyết điểm,
chứ Đẳng Giác Bồ Tát vẫn c̣n thua một
bực.
“Dữ
thập đại nguyện đẳng” (và mười
đại nguyện v.v...), mười đại
nguyện đă nói đại lược trong phần
trước. “Phổ Hiền
Bồ Tát thập đại nguyện đẳng”, “đẳng” là nói tới
những thứ khác, như bốn mươi tám nguyện
do ngài Pháp Tạng đă phát trong hội này, hoặc các
vị Bồ Tát trong khi tu nhân đă phát ra vô lượng vô
biên đại nguyện thù thắng. “Nguyện dĩ đạo hạnh, hạnh dĩ măn
nguyện” (nguyện để hướng dẫn
hạnh, hạnh nhằm măn nguyện), nguyện nhằm
dẫn dắt quư vị tu hành. Nếu chẳng nguyện,
quư vị tu hành chẳng thể thành tựu. V́ sao? Chẳng
có phương hướng, thiếu mục tiêu. Giống
như lái thuyền trong biển cả, chẳng có
phương hướng, chẳng có mục tiêu, chúng ta
biết là rất nguy hiểm. Không chỉ chẳng
đạt được mục đích, mà c̣n gặp nguy
hiểm tột cùng bất cứ lúc nào. Thật
đấy, chẳng giả đâu! V́
thế, con người chẳng thể không có nguyện,
trong Phật pháp gọi là “nguyện”, tại Trung Quốc,
thế tục thường nói đến “chí”.
Người chẳng thể không có chí; v́ thế, chí và
nguyện thường được gộp chung, nhà
Phật gọi là Nguyện. Hết thảy chư Phật,
Bồ Tát có chung một nguyện độ chúng sanh,
phổ độ chúng sanh. “Phổ”
có nghĩa là b́nh đẳng, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, mang ư nghĩa b́nh đẳng. Bồ
Tát ứng hóa trên thế gian, v́ sao? Nhằm giúp đỡ
hết thảy chúng sanh khổ nạn. Trong các hành
động giúp đỡ, có một nguyên tắc bất
biến, đó là “giúp chúng sanh phá mê khai ngộ”, điều
này rất trọng yếu! Phật, Bồ Tát biết
tất cả hết thảy khổ nạn và quả báo
của chúng sanh, căn nguyên của quả báo bất
thiện là do mê mất bổn tánh, mê chứ không giác, đó
là cội nguồn chung, căn cội của hết
thảy khổ nạn và quả báo. Phật, Bồ Tát giáo
học từ chỗ này, nắm vững từ căn
bản th́ mới có thể sanh ra hiệu quả thù
thắng. V́ thế, cứu khổ cứu nạn là giúp
chúng sanh phá mê, khai ngộ. Như vậy là chúng ta hiểu
rơ, thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật suốt
đời dạy học, mỗi ngày [đều dạy]
chẳng gián đoạn, chỉ cần gặp Ngài
đều là người có duyên. Gặp một
người bèn dạy một người, gặp hai
người bèn dạy hai người. Ngài dạy học
chẳng câu nệ thời gian, cũng chẳng có nơi
chốn nhất định, bất luận chỗ nào,
bất luận lúc nào, hễ gặp gỡ, Ngài bèn dạy.
Bậc thầy như vậy, xưa nay rất ít thấy
người nhiệt tâm dường ấy, v́ sao? Ngài
biết quan hệ giữa người khác và chính ḿnh.
Đó là luân lư nhà Phật, luân lư cũng được
giảng đến mức viên măn. Hết thảy chúng sanh
và ta là một Thể. [Đă là] một Thể th́ gặp
người khác, kẻ ấy đă mê, tạo tác bất
thiện, há lẽ nào chẳng dạy? Không chỉ phải
dạy, mà c̣n nhất định phải giúp cho kẻ
ấy giác ngộ, đó là “chẳng bỏ một ai”. V́
thế, nguyện trọng yếu vô cùng. Nguyện chánh xác,
phương hướng mục tiêu chánh xác th́ hạnh
của chúng ta chánh đáng, tư tưởng, lời
lẽ, và hành vi đều chánh đáng. Tư tưởng,
lời lẽ, hành vi bất chánh, nói cách khác, [nguyên nhân là do]
chí nguyện chẳng lập, chí nguyện chẳng kiên cố,
nên tư tưởng và hành vi của kẻ ấy trong
[cuộc sống] hằng ngày mới có lệch lạc.
Hạnh nhằm măn Nguyện,
nhất định phải tu hành th́ mới có thể
thỏa măn nguyện vọng của quư vị. Chúng ta
muốn đoạn phiền năo, phải học pháp môn.
Phiền năo chẳng đoạn, học pháp môn bằng cách
nào? Pháp môn nhất định phải giúp quư vị
đoạn phiền năo, v́ sao? Trong giai đoạn này,
đoạn phiền năo là chủ yếu. Phiền năo
chẳng đoạn, pháp môn chẳng thể thành tựu.
Phương pháp đoạn phiền năo và học pháp môn vô
lượng vô biên, “pháp môn vô
lượng thệ nguyện học”, vô lượng, vô
biên; nhưng để đoạn phiền năo, chỉ có
thể chọn lựa mấy thứ trong vô lượng vô
biên pháp môn, không thể quá nhiều, nhiều quá lại
chuốc lấy một đống lớn phiền năo!
Không chỉ chẳng đoạn được, mà
ngược lại [phiền năo] c̣n tăng trưởng.
Hiện tượng như thế rất phổ biến,
xưa nay trong ngoài nước đều có, chẳng
phải là ngoại lệ. Do vậy, đọc tụng
Đại Thừa cũng là một pháp môn trong tám vạn
bốn ngàn pháp môn. Ta đọc tụng nhằm mục
đích nào? Chẳng phải là pháp môn vô lượng thệ
nguyện học, không nhằm mục đích này, mà nhằm
giúp ta đoạn phiền năo. Phiền phức lớn
nhất trong các phiền năo là vọng niệm và vọng
tưởng. Quư vị thấy đó, niệm trước
diệt, niệm sau sanh, tuyệt đối chẳng
thể ngưng dứt, đương nhiên càng chẳng
thể đoạn dứt. Vọng niệm tơi bời,
cả đống ư niệm bất thiện, dùng
phương pháp ǵ? Vô lượng pháp môn quy nạp lại
chỉ có mấy thứ, tŕ giới là một phương
pháp, tu Định là một phương pháp, tác Quán là một
phương pháp, đó là Chỉ Quán, niệm Phật là một
phương pháp, đọc kinh cũng là một phương
pháp. Đọc kinh phải đọc như thế nào?
Dùng phương pháp đọc kinh để chấm
dứt vọng niệm. Không đọc kinh, vọng
niệm rất nhiều. Đọc kinh nhằm tập
trung cái tâm một chỗ, chế tâm nhất xứ. Cũng
là nói “buông xuống tất cả ư niệm, cung kính niệm
bộ kinh này”. Như kinh Vô Lượng Thọ, tốc
độ không nên quá nhanh, mà cũng đừng quá chậm,
phải khiến cho vọng tưởng chẳng xâm
nhập, nhằm mục tiêu này. Ta đọc kinh này từ
đầu đến cuối một lần, đại
khái phải từ một giờ rưỡi đến hai
giờ, đấy là quư vị tu hành một tiếng
rưỡi hoặc tu hai giờ. Đọc kinh là
đoạn phiền năo, nhất định phải
hiểu mục tiêu này. Do vậy, sau khi đọc một
bộ kinh, vọng niệm cũng chẳng có, công phu khá
lắm! Đọc một bộ kinh, trong hai tiếng đồng
hồ chẳng khởi một vọng niệm, công phu
tốt đẹp lắm. Hai tiếng đồng hồ chẳng
khởi một vọng niệm, nói thông thường,
phải huấn luyện bao lâu? Đại khái huấn
luyện từ ba năm đến năm năm mới có
thể đạt tới tŕnh độ này. V́ thế,
niệm một bộ kinh, khởi lên mười hoặc
hai mươi vọng tưởng là b́nh thường.
Muốn đạt đến mức khởi hai, ba vọng
tưởng ước chừng phải mất ba năm
công phu, chẳng có ba năm công phu, sẽ chẳng làm
được. Có thể khởi một vọng
tưởng, đại khái phải đến năm
năm công phu. Tâm quư vị đă định, định
lâu sẽ khai trí huệ, phương pháp đọc
tụng là như vậy.
Đọc tụng quyết
định không nên nghĩ trong kinh có ư nghĩa ǵ, v́ quư
vị vừa nghĩ tới ư nghĩa th́ ư nghĩa là
vọng tưởng, vọng tưởng lại xâm
nhập rồi. Chỉ niệm, chẳng có ư nghĩa ǵ,
dùng cách này để dứt vọng tưởng. Niệm
Phật, tu Định, tŕ giới đều dùng
phương pháp này, mục tiêu tương đồng,
dụng ư như nhau. V́ thế, phương pháp đọc
tụng này đối với phần tử tri thức
hữu hiệu nhất, nhiều năm qua tôi sử
dụng biện pháp này. Tôi niệm Phật không
được, niệm Phật suốt ngày cả một
vạn tiếng Phật hiệu, vẫn cứ khởi
vọng tưởng y như cũ, nhưng xem kinh hoặc
đọc kinh th́ được; v́ thế, đây là do
căn tánh của mỗi cá nhân khác nhau. Lúc mới học
cũng có thể thử xem, tŕ chú, tŕ giới đều có
thể thử xem phương pháp nào thích hợp với
chính ḿnh, sử dụng rất thuận tiện, chính ḿnh
cũng rất ưa thích, bèn dùng phương pháp ấy. V́
thế, hiện thời mỗi ngày, thông thường vào lúc
ít khách, thời gian đọc kinh của tôi sẽ
chẳng ít hơn bốn giờ đồng hồ, dùng
phương pháp này để đoạn ư niệm của
chính ḿnh. Trọn chẳng nghĩ đến ư nghĩa trong
kinh, hễ nghĩ sẽ là cầu giải, đó là một
pháp môn khác. Hiện thời tôi đọc kinh, mục
đích của tôi là nhằm tu Định, nhằm ngưng
dứt vọng niệm, công phu ở chỗ này. Nghiên
cứu cầu giải, một mặt nâng cao cảnh
giới của chính ḿnh, giúp cho Chỉ Quán của chính ḿnh,
triết học hiện thời gọi Chỉ Quán là vũ
trụ quan và nhân sinh quan, nâng cao cảnh giới của
chính ḿnh về phương diện ấy. Mặt khác, chúng
tôi chia sẻ tâm đắc trong học tập với
đại chúng, cũng giúp cho mọi người có
thể liễu giải nghĩa lư của kinh. Sau khi
liễu giải, biết chính ḿnh mỗi ngày phải
sống như thế nào, đó là tu hành, tu hành là cuộc
sống. Nói cách khác, chúng ta chẳng sống cuộc
đời lục đạo luân hồi, chúng ta ở
nơi đây (trong lục đạo) mà sống cuộc
đời của Phật, Bồ Tát, có thể đạt
tới thanh lương, tự tại, người thế
gian gọi [cuộc sống ấy] là “hạnh phúc mỹ
măn”. Cuộc sống của Phật, Bồ Tát là hạnh
phúc mỹ măn. Nói cách khác, dùng kinh điển để
chỉ đạo chúng ta sống như thế nào, mang ư
nghĩa này. Do vậy, Hạnh mới có thể măn Nguyện.
Dùng một chữ Hạnh để bao gồm hành vi sai lầm
của chúng ta, bao gồm tư tưởng, kiến
giải, ngôn ngữ, tạo tác. Nương theo kinh giáo
để uốn nắn, sửa đổi cách nghĩ
lầm, thấy trật, nói sai, làm quấy, đó là tu hành.
Tu hành ở chỗ nào? Tu hành trong hết thảy thời,
hết thảy chỗ. Thật vậy, tu nơi khởi
tâm động niệm, đó là cội rễ của
Hạnh. Khởi tâm động niệm thiện, ngôn
hạnh của quư vị chắc chắn là thiện.
Khởi tâm động niệm bất thiện, ngôn hạnh
đương nhiên sẽ bất thiện, căn nguyên
của nó là ư niệm. V́ thế, Hạnh nhằm măn
Nguyện. “Hạnh như túc,
nguyện như mục, hỗ tương y tŕ”
(Hạnh như chân, Nguyện như mắt, nương
tựa lẫn nhau), đây là nói về mối quan hệ
giữa Hạnh và Nguyện, Nguyện lănh đạo quư
vị, chỉ dẫn quư vị phương hướng và
mục tiêu chánh xác, quư vị mới có thể đạt
đến.
“Cụ
túc”, trong kinh Phật thường dùng hai chữ này.
Ở đây, giải thích ư nghĩa hai chữ này rất
hay, “viên măn vô dư”,
[nghĩa là] viên măn, chẳng khiếm khuyết mảy may
nào, đó là “cụ túc”, “cụ túc” có nghĩa là viên
măn. “Hạnh Nguyện Phẩm
vân”, [nghĩa là] trong phẩm Phổ Hiền Bồ Tát
Hạnh Nguyện có nói, “văn
thử nguyện vương” (nghe nguyện vương
này), quư vị nghe mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát, đại
khái quư vị cũng có thể hiểu rơ ư nghĩa của
mười điều ấy, “độc,
tụng, thư tả” (đọc, tụng, biên chép),
đều là công phu. Đối trước kinh
điển để niệm là Độc (讀), Tụng (誦) là niệm
thuộc ḷng, niệm rất thuộc, không cần xem kinh
cũng có thể đọc thuộc ḷng, đó là Tụng.
Ngoài đọc tụng ra là biên chép, nay chúng ta gọi là “mặc tả” (默寫: chép
thuộc ḷng), nhưng khi viết có thể nh́n vào kinh
bổn để chép th́ chúng ta gọi là “sao kinh” (抄經), không xem kinh để viết th́
gọi là “mặc tả”.
“Thư tả” là hai loại này. “Thị chư nhân đẳng, ư nhất niệm
trung, sở hữu hạnh nguyện giai đắc thành
tựu” (Những người ấy trong một
niệm, tất cả hạnh nguyện đều
được thành tựu). Quư vị hăy suy nghĩ mấy
câu này, nếu chúng ta chẳng nhất tâm xưng niệm,
sẽ chẳng có hiệu quả ấy! Kinh Di Giáo nói “chế tâm nhất xứ”,
nhất tâm xưng niệm và chế tâm nhất xứ có
cùng một ư nghĩa, người thế gian chúng ta nói là
“chuyên tâm”. Khi tụng niệm công khóa, khi tu hành, tâm vô
nhị niệm, kinh văn [hiển hiện] rơ ràng, minh
bạch trong tâm của chính ḿnh. Trong khi ấy, mười
nguyện này, nguyện nào cũng đều trọn
đủ, đều được thành tựu. Trong
một nguyện, viên măn chín nguyện khác, nguyện nào
cũng là như thế, quư vị thấy mười
nguyện biến thành một trăm nguyện. Do vậy, [mỗi
đời trong ba đời] đem phối hợp với
ba đời, quá khứ, hiện tại, tương lai,
lại thành cửu thế. Cửu thế là nói theo thời
gian, [tức là] đời quá khứ của quá khứ,
đời hiện tại của quá khứ, đời
vị lai của quá khứ, đời quá khứ của
hiện tại, đời hiện tại của hiện
tại, đời vị lai của hiện tại;
đời vị lai của vị lai, đời hiện
tại của vị lai, đời quá khứ của
vị lai. Quư vị chia ra như vậy, [cửu thế
cộng với “tam thế” ban đầu sẽ thành
“thập thế”, mỗi thế có mười nguyện nên]
mười nguyện sẽ biến thành một ngàn
nguyện. Do lư do đó, mười điều thiện
của Bồ Tát có thể lần lượt biến thành
tám vạn bốn ngàn tế hạnh, do từ chỗ này
mở rộng ra. Mười nguyện Phổ Hiền
đương nhiên cũng là tám vạn bốn ngàn tế
hạnh, lại mở rộng ra, đúng là vô lượng,
vô biên, vô số, vô tận, “một
tức là nhiều, nhiều tức là một”, đây là
câu nói tổng kết trong kinh Hoa Nghiêm. Đều ở
trong một niệm tâm, niệm niệm như vậy,
chẳng thể nghĩ bàn!
“Thử
chánh hiển tùng quả hướng nhân, dĩ Di Đà chi
thiện xảo phương tiện gia tŕ hồi
hướng, thành tựu vô lượng siêu xuất
Thập Địa chư thánh chi hạnh nguyện”
(Điều này chỉ rơ từ quả hướng về
nhân, dùng phương tiện thiện xảo của
Phật Di Đà để gia tŕ hồi hướng thành
tựu vô lượng hạnh nguyện vượt
trỗi các vị thánh trong Thập Địa). Đoạn
kinh văn ngắn này trong phẩm Hạnh Nguyện cho
thấy Như Lai từ quả hướng đến nhân.
Phổ Hiền Bồ Tát đă chứng đắc quả
vị rốt ráo, thuộc địa vị Diệu Giác,
thị hiện thân phận Đẳng Giác Bồ Tát trong
hội Hoa Nghiêm. Đẳng Giác Bồ Tát là nhân vị (địa
vị tu nhân), Diệu Giác là quả vị (địa vị
chứng quả). Nói cách khác, chúng sanh có cảm, tự tánh
Thường Tịch Quang có ứng, tướng của Ứng
Thân ấy là Đẳng Giác Bồ Tát. Đó là “từ quả hướng
đến nhân”, người Hoa gọi [chuyện này] là “thả chiếc bè Từ”.
Ngài quay lại, dần dần tiến lên cao hơn; nay Ngài
lui lại, lui lại để giúp đỡ chúng ta.
Nếu Ngài không lui xuống, cứ trụ trong địa
vị ấy, chúng ta sẽ không thể tiến lên. Ngài
đến đi tự do, chúng ta chẳng tự do, nên Ngài
cần phải lui xuống giúp đỡ chúng ta, giúp
bằng cách nào? Quư vị thấy, Phổ Hiền Bồ Tát
dùng thiện xảo phương tiện của Phật Di
Đà để gia tŕ, hồi hướng, thả
chiếc bè Từ, vẫn xin A Di Đà Phật dùng thiện
xảo phương tiện nơi bổn nguyện gồm
bốn mươi tám nguyện để gia tŕ, hồi
hướng, đấy là biểu diễn cho chúng ta
thấy. Chúng ta trông thấy, hiểu rơ, có nên nương
tựa A Di Đà Phật hay không? Đă chứng đắc
địa vị Diệu Giác, quay trở lại thị
hiện như vậy, chẳng có chi khác, chỉ nhằm
khuyến cáo chúng ta nhất định phải nương
cậy A Di Đà Phật. A Di Đà Phật ở chỗ
nào? Một bộ kinh này là A Di Đà Phật, phải
hiểu điều này. Chúng ta mỗi ngày cúng dường
tượng A Di Đà Phật, mỗi ngày đốt
hương, dập đầu lạy lục cầu Ngài
phù hộ, đó là mê tín, như vậy là có lỗi với A
Di Đà Phật, coi A Di Đà Phật như thần tiên,
sai lầm rồi! Thờ h́nh tượng nhằm ư
nghĩa ǵ? Thờ tượng để nhắc nhở
chúng ta thường nghĩ đến kinh Vô Lượng
Thọ. Giáo huấn của A Di Đà Phật dành cho chúng ta
hoàn toàn ở trong bộ kinh điển này, nghe danh hiệu
liền nghĩ đến kinh điển, thấy h́nh
tượng cũng phải nghĩ đến kinh
điển, tác dụng ở chỗ này. Thời thời
khắc khắc dùng h́nh tượng để nhắc
nhở chúng ta, dạy chúng ta niệm niệm chớ quên.
Người học Phật thờ h́nh tượng
Phật, Bồ Tát là do ư nghĩa ấy. Phải biết
điều này; nếu không, sẽ là làm chuyện mê tín. V́
sao người học Phật chúng ta thờ h́nh
tượng Phật nhiều như thế? Tánh Đức
của chúng ta vô lượng vô biên, [nếu chỉ] dùng
một danh hiệu, một h́nh tượng, sẽ
chẳng có cách nào hiển thị Tánh Đức viên măn
của chúng ta.
Do vậy, A Di Đà Phật
đại diện kinh Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm
Bồ Tát đại diện phẩm Phổ Môn, Phổ
Hiền Bồ Tát đại diện phẩm Hạnh
Nguyện, Văn Thù Bồ Tát đại diện kinh Bát Nhă,
Địa Tạng Bồ Tát đại diện kinh Bổn
Nguyện, chúng ta trông thấy h́nh tượng các Ngài bèn
nghĩ đến giáo huấn trong các bộ kinh
điển ấy. Các kinh điển ấy dạy ǵ? Kinh
Vô Lượng Thọ biểu thị đại viên măn,
Quán Âm Bồ Tát biểu thị từ bi. Nghe các danh hiệu
ấy, thấy các h́nh tượng ấy, phải nghĩ
ta nên giống hệt như Quán Âm Bồ Tát, dùng tâm
đại từ đại bi đối đăi hết
thảy chúng sanh, mang ư nghĩa này, chớ nên hiểu sai!
Địa Tạng Bồ Tát biểu thị hiếu
thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng, đấy là
căn bản của giáo học. Giáo dục của thánh
hiền thế gian và xuất thế gian sanh ra từ
đâu? Sanh từ hiếu thảo cha mẹ và tôn trọng
thầy. V́ thế, danh hiệu của Bồ Tát là
Địa Tạng, Địa là đại địa,
Tạng là kho báu. Nay quư vị thấy [người ta]
thăm ḍ đại địa để t́m khoáng sản.
Địa ở đây là nói tới tâm địa, kho báu
trong tâm địa là vô lượng trí huệ, vô
lượng đức năng, vô lượng tướng
hảo, dùng phương pháp ǵ để khai thác? Dùng hai
phương pháp là hiếu thảo cha mẹ và tôn trọng
thầy để khai thác kho báu trong tự tánh, dùng ư
nghĩa này. Nghe danh hiệu, thấy h́nh tượng, bèn
lập tức nghĩ đến [hiếu thân, tôn sư],
quư vị thấy Tánh Đức thường thấu
lộ ra ngoài, đó là chuyện tốt. Văn Thù Bồ Tát
biểu thị trí huệ, Phổ Hiền Bồ Tát
biểu thị “thật sự làm”, dùng danh từ này cho
dễ hiểu. Phổ Hiền Bồ Tát là thật sự
làm, khai phát Tánh Đức trong tự tánh. Đặt ra
những thứ ấy, những nghệ thuật phẩm
ấy đều là thiện xảo phương tiện
trong nhà Phật, chẳng có chút xíu mê tín nào! Do vậy,
thật sự hiểu, đă hiểu rơ ràng, chúng ta sẽ
bội phục Phật pháp năm vóc sát đất, đó
gọi là ǵ? Nghệ thuật hóa giáo học. Nghệ
thuật hóa là trong thời cận đại, từ sau
Đệ Nhị Thế Chiến, trong xă hội chúng ta nghe
nói đến danh từ “nghệ thuật hóa” rất nhiều,
thứ ǵ cũng đều nhấn mạnh nghệ
thuật, ngay cả chiến tranh cũng nhấn mạnh
nghệ thuật, chánh trị cũng là nghệ thuật,
công thương cũng là nghệ thuật, đều
nhấn mạnh nghệ thuật hóa! Từ ba ngàn năm
trước, Phật đă thực hiện nghệ
thuật hóa, thảy đều tiến nhập nghệ
thuật hóa giáo học, chúng ta chẳng thể không bội
phục. Ba ngàn năm sau, con người mới nghĩ
tới, mới theo đuổi nghệ thuật. Do vậy,
trong Phật pháp, hết sức coi trọng điêu
khắc, hội họa, âm nhạc, mỹ thuật,
kiến trúc, thứ ǵ cũng đều nhằm biểu
thị pháp, thứ ǵ cũng đều là giáo học. Quư
vị thật sự thấu hiểu, chẳng cần nói
câu nào. Bước vào chùa miếu, quư vị cũng thu
được một bài học rất phong phú, rất
viên măn. Những điều này đều nhằm nói
về thiện xảo phương tiện, gia tŕ hồi
hướng, tất cả hết thảy đều là gia
tŕ.
Cuối cùng nói “phổ giai hồi hướng”, tâm lượng
của chúng ta đă khôi phục b́nh thường. Tâm
lượng b́nh thường là “tâm
bao thái hư, lượng châu sa giới” (tâm trọn
khắp thái hư, lượng như các cơi nước
nhiều như cát), người Hoa thường nói “lượng to, phước
lớn”. Đức Phật bảo chúng ta, tâm
lượng của mỗi cá nhân chúng ta vốn c̣n to hơn
hư không pháp giới, quư vị vốn sẵn là như
vậy. Nay chúng ta phải t́m lại cái vốn có, phải
t́m lại tự tánh, hồi hướng là đạt
tới viên măn, t́m lại nó một cách viên măn. Cách luyện
tập trong lúc thường ngày là như thế nào?
Phải luyện tập ngay trong hiện tại. Hiện
thời, tâm lượng rất nhỏ, phải vận
dụng trong thường nhật, khởi tâm động
niệm đừng nghĩ v́ chính ḿnh, hăy thường
nghĩ v́ chúng sanh, tâm lượng bèn rộng mở.
Thật vậy, trí huệ hiện tiền, phước báo
cũng to lớn. Niệm niệm nghĩ v́ chính ḿnh, buôn bán
mong phát tài, niệm niệm mong ḿnh phát tài, tiền của
sẽ có hạn. V́ sao? Trong mạng đă định
sẵn, quư vị chẳng có cách nào vượt qua [hạn
mức đă định sẵn ấy]; nhưng nếu
chuyển biến ư niệm, ta phát tài chẳng v́ chính ḿnh, mà
phát tài nhằm giúp hết thảy chúng sanh khổ nạn,
tuyệt lắm, đấy chẳng c̣n là tài vật trong
mạng của quư vị nữa, v́ sao? Tánh Đức
tỏ lộ, của cải sẽ vô lượng vô biên, v́
sao? Tất cả chúng sanh khổ nạn đều
hưởng phước của quư vị, đó là
thật!
Vào hai ngàn năm trăm năm
trước, nhằm thời đại
Xuân Thu, [tức là] nhằm thời đại Ngô - Việt
thời Xuân Thu, quư vị thấy Phạm Lăi buôn bán
chẳng v́ chính ḿnh, rất nhanh, mấy năm đă phát tài
to. Sau khi phát tài, thấy người ta nghèo cùng,
khổ sở, đều giúp đỡ, tán tài, chia cho
mọi người, khiến cho mọi người có
thể sống qua ngày. Chính ḿnh lại từ cái vốn
nhỏ nhoi để bắt đầu buôn bán, trong
mạng cũng có, hơn nữa, lại làm chuyện
tốt đẹp to tát dường ấy, ông ta thật
sự có thể phát tài, phát tài là v́ có đại
đạo, bố thí mà! Từ món tiền vốn nhỏ
để bắt đầu buôn bán, chưa đầy hai
ba năm lại phát tài, phát tài nhiều hơn lần
trước, lập tức chia hết của cải. Sau
khi chia sạch, lại làm từ đầu, rất
tuyệt! Ba lần tụ tài, ba lần tán tài, nên sau này,
người Hoa thờ ông ta làm Tài Thần. Người Hoa
thờ ai làm Tài Thần? Phạm Lăi! Điều này rất
có lư, ông ta là một vị thương nhân Bồ Tát,
dạy quư vị kinh doanh, buôn bán như thế nào? Chẳng
v́ chính ḿnh, mà v́ chúng sanh. Bản thân quư vị tu
phước, đời đời kiếp kiếp
hưởng chẳng hết, quư vị thấy quư vị
đă cứu vớt bao nhiêu người? Quư vị bố
thí, thi ân, trong tương lai, con cháu trong nhà quư vị ai nấy
đều là con hiếu, cháu hiền, v́ sao? Chúng nó
đến báo ân, chẳng đến báo oán, chẳng
đến đ̣i nợ. Phạm Lăi nêu gương cho chúng
ta thấy. Đặc biệt là trong thế giới
hiện đại, hết thảy nhấn mạnh khoa
học, khoa học đ̣i hỏi chứng cớ, chúng ta cũng
phải nêu gương. Tán tài chẳng thua thiệt, tán tài
là chiếm đại tiện nghi, nhưng chẳng ai
biết chuyện này.
Đến hồi hướng
mới thật sự là viên măn, do vậy, người
ấy thành tựu vô lượng hạnh nguyện
vượt trỗi chư thánh thuộc Thập
Địa. Người ấy thực hiện triệt
để, viên măn. Những vị Bồ Tát ấy học
theo A Di Đà Phật; A Di Đà Phật kiến lập Tây
Phương Cực Lạc thế giới để làm ǵ?
Chẳng phải v́ chính ḿnh, chẳng dính vào tiếng
tăm, lợi dưỡng cho chính ḿnh, mà nhằm giúp
lục đạo chúng sanh trong hết thảy các cơi
Phật khắp pháp giới hư không giới, tiếp
dẫn họ đến thế giới Cực Lạc,
tạo ra một đạo tràng thích hợp nhất
để tu hành thành tựu trong thế giới Cực
Lạc, hoan nghênh họ đến đó. Chẳng đ̣i
hỏi điều kiện rất cao, mà là điều
kiện rất đơn giản, quư vị thật sự
là thiện nam tử, thiện nữ nhân, cũng tức là
quư vị có thể làm được Thập Thiện
Nghiệp Đạo, tin tưởng pháp môn này, bằng ḷng
văng sanh, Ngài sẽ đến tiếp dẫn quư vị.
[Điều kiện căn bản để văng sanh là] tín
nguyện tŕ danh, quư vị thấy đơn giản
lắm! Nhưng chúng ta chớ nên quên, đừng sơ sót
một điều kiện trọng yếu như Thích Ca
Mâu Ni Phật đă giới thiệu: “Chẳng thể do chút ít thiện căn,
phước đức, nhân duyên mà được sanh
về cơi ấy”, câu này
trọng yếu lắm. Quư vị có tín, có nguyện, có
hạnh, đến cuối cùng quư vị chẳng thể
văng sanh, bèn trách “Phật lừa ta”. Phật chẳng
lừa quư vị, Phật đă nói rất rơ ràng, quư vị
ít thiện căn, phước đức, nhân duyên, sẽ
chẳng thể đến đó. Đến đó,
nhất định phải là người nhiều
thiện căn. Thiện căn là ǵ? Thiện căn là tín
nguyện, quư vị thật sự tin tưởng,
nguyện thiết tha. Đó là thiện căn. Phước
đức là ǵ? Phước đức là thật sự
làm, ta thật sự thực hiện Thập Thiện
Nghiệp Đạo, v́ nơi ấy toàn là chư
thượng thiện nhân cùng nhóm họp một chỗ.
Tiêu chuẩn của thiện là mười thiện
nghiệp, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không
nói dối, không nói đôi chiều, không nói thêu dệt, không
ác khẩu, không tham, không sân, không si. Làm được
điều kiện này vài phần là được
rồi. Làm viên măn cả mười điều kiện
sẽ thành Phật, chúng ta có thể làm đến một phần
trăm th́ được rồi, nắm chắc văng sanh
Cực Lạc thế giới! Do vậy, mười
nguyện ấy chẳng thể không tu, cách tu mười
nguyện ấy ra sao? Tôi đă nói rất nhiều lần,
thực hiện Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên
chính là tu Thập Thiện Nghiệp Đạo. V́ Thập
Thiện Nghiệp Đạo chỉ đề ra
cương lănh, chẳng nói chi tiết. Cảm Ứng Thiên
và Đệ Tử Quy là hạng mục chi tiết, c̣n
mười điều [trong Thập Thiện Nghiệp Đạo]
là tổng cương lănh. Quư vị thực hiện hai
thứ ấy th́ Đệ Tử Quy đă làm
được, Thập Thiện Nghiệp cũng làm
được, quư vị là chư thượng thiện
nhân. Tuy là tiểu thiện, khi văng sanh, A Di Đà Phật
trước hết dùng Phật quang chiếu gội quư
vị. Phật quang vừa chiếu, tiểu thiện
sẽ biến thành đại thiện, nâng lên cao, đó là
Phật lực gia tŕ. Phật lực gia tŕ là tương
đối, [nghĩa là] quư vị có bao nhiêu, Ngài tăng thêm
bấy nhiêu. Chúng ta tu nhiều, Ngài sẽ tăng thêm
nhiều, chớ nên không hiểu đạo lư này!
Chúng ta lại xem đoạn
kế tiếp: “An trụ
nhất thiết công đức pháp trung, nhất thiết
công đức pháp chỉ Phật quả chi vô tận công
đức” (An trụ trong hết thảy pháp công
đức: Chữ “hết thảy công đức”
chỉ Phật quả công đức vô tận). Chúng ta thường nói viên măn xứng tánh là hết
thảy công đức, thật vậy, cũng chẳng có
ǵ hiếm lạ, v́ sao? Vốn trọn đủ trong
tự tánh, hết thảy chúng sanh ai nấy đều có
phần, chẳng phải là nói Phật có, c̣n chúng ta
chẳng có. “Chúng ta có” là có như thế nào? Tuy có, nhưng
hiện thời bị chướng ngại, tuy có, nhưng
không lấy ra được. Ví như quư vị có tài
sản ức vạn, đều để trong ngân hàng,
cất trong ấy, hiện thời quư vị ở bên ngoài,
muốn ăn một bữa cơm, túi không có tiền,
vẫn phải tạm thời làm lụng một chút,
người ta mới cho quư vị ăn một bữa.
Chẳng phải là quư vị không có, nhưng hiện
thời chẳng lấy ra được, có chướng
ngại, đạo lư là như vậy đó. Phật và Pháp
Thân Bồ Tát chẳng có chướng ngại; v́ thế,
đối với Tánh Đức viên măn có thể tự
tại khởi tác dụng, đối với vô
lượng trí huệ, vô lượng thần thông có
thể tự tại khởi tác dụng, đạo lư
như vậy đó. Đức Phật đă nói rất rơ
ràng, nếu chúng ta diệt trừ chướng ngại,
chướng ngại của chúng ta chính là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước,
chướng ngại chia thành ba loại lớn ấy,
mỗi loại đều là vô lượng vô biên, gồm
ba loại lớn ấy! Đức Phật nói rất rơ
ràng, hoàn toàn diệt trừ ba loại lớn ấy, quư
vị sẽ thành Phật, chẳng khác ǵ A Di Đà
Phật, trí huệ và đức tướng trong tự
tánh sẽ hiện tiền viên măn. Chưa có năng lực
trừ diệt hoàn toàn th́ trừ từng phần, có
tất cả ba phần, trong ba phần diệt trừ
một phần, đă khởi tác dụng rồi. Trừ
từ bên ngoài, tức là trước hết, hăy trừ
từ bên ngoài, phần ở bên ngoài chính là chấp
trước. Nếu là thật sự [đoạn trừ],
chúng ta buông chấp trước xuống, chẳng c̣n
chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, quư vị chứng quả A La Hán, hết
thảy công đức trong tự tánh thấu lộ
một phần ba. Một phần ba đă là thần thông
rộng lớn rồi! Người Hoa đọc Tây Du Kư
rất nhiều, biết Tôn Ngộ Không thần thông
quảng đại, nhưng A La Hán vượt trỗi Tôn
Ngộ Không chẳng phải chỉ là một vạn
lần, Tôn Ngộ Không chẳng thể sánh bằng A La Hán!
Quư vị biết đó là v́ năng lực khôi phục,
thần thông khôi phục. Nếu lại khử thêm một
phần, tức là lại trừ khử phần phân
biệt, đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian chẳng c̣n phân biệt, chư
vị phải biết, không chấp trước sẽ
đắc tâm thanh tịnh, tựa đề kinh này là “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”, chẳng chấp
trước, tâm thanh tịnh hiện tiền, [đó là] A La
Hán. Chẳng phân biệt, tâm b́nh đẳng hiện
tiền. Bồ Tát chẳng phân biệt, A La Hán c̣n có phân
biệt, Ngài chẳng chấp trước, nhưng có phân
biệt. Đối với phân biệt, Bồ Tát cũng
chẳng có, Tánh Đức trong tự tánh thấu lộ hai
phần ba. Cuối cùng là đại triệt đại
ngộ, đó là giác, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”,
sự giác ấy là đại triệt đại ngộ, minh
tâm kiến tánh, hoàn toàn chẳng có chướng ngại, [Tánh
Đức trong tự tánh] thấu lộ toàn bộ.
Ở đây, nói đến vô
tận công đức. Phật quả có công đức vô
tận, đó là viên măn xứng tánh, thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác đều đă đạt
được. Nếu chẳng giải thích như vậy,
chỉ nói “hết thảy các pháp công đức” th́ Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật đều có thể nói
[là các Ngài trọn đủ hết thảy các pháp công
đức]. Phía sau thêm vào một câu, nói rơ là công đức
vô tận nơi Phật quả. Như vậy là không
phải là nói tới [quả vị] Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ Tát, chẳng nói tới các địa vị ấy,
mà nói tới quả địa Như Lai, thật sự
chứng đắc viên măn “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” th́ mới là cảnh giới đó. Đây là nói
người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới đều an trụ trong hết thảy các pháp công
đức nhằm cổ vũ, khích lệ chúng ta cầu
sanh thế giới Cực Lạc. Chúng ta văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư, nói thật ra, sự hưởng thụ
của chúng ta nhiều nhất là bằng Thanh Văn,
chưa viên măn, nhưng thế giới ấy là thế
giới đặc thù, chẳng giống những thế
giới khác! Trong nguyện thứ hai mươi, A Di Đà
Phật đă nói hễ ai sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới “đều
là A Duy Việt Trí Bồ Tát”. Câu này rất trọng
yếu, trong các cơi Phật khắp mười phương
chẳng có điều này, chỉ riêng thế giới
Cực Lạc là có. Do bổn nguyện và oai thần
của A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, tuy chưa
đoạn phiền năo, nhưng trí huệ, thần thông, và
đạo lực của quư vị bằng với A Duy
Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát là ǵ? Là
Phật! Hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư, đến bên kia được đăi
ngộ, được hưởng thụ sự đăi
ngộ nơi Phật quả, t́m đâu ra điều này!
Cũng có thể nói là quư vị đến thế giới
Cực Lạc bèn thành Phật. Sự “thành Phật” ấy
chẳng phải là thật sự thành Phật, mà do A Di
Đà Phật gia tŕ quư vị. Loại đăi ngộ ấy
do A Di Đà Phật ban cho quư vị, chẳng do chính bản
thân quư vị đạt được, chính ḿnh vẫn c̣n
phải tu [ḥng thật sự đạt đến].
Bất quá chính ḿnh tu sẽ rất dễ dàng, lại c̣n rút
ngắn thời gian với một mức độ to
lớn. Quư vị thấy đó, tu hành trong thế giới [Sa
Bà] này phải mất vô lượng kiếp, trụ trong vô
lượng kiếp; đến thế giới Cực
Lạc tu hành, chúng ta nói về quả vị thấp
nhất là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư, tu hành trong thế giới Cực
Lạc, tu đến mức an trụ trong hết thảy
các pháp công đức phải mất thời gian bao lâu?
Mười hai kiếp. Quư vị thấy vô lượng
kiếp lập tức rút ngắn thành mười hai
kiếp. Đối với hoàn cảnh học tập
[tốt đẹp, thuận tiện] ấy, quư vị có
nên đến đó hay không? Khắp pháp giới hư không
giới, chẳng thể t́m đâu ra một nơi nào
giống như vậy! Chỉ có một chỗ
gương mẫu như thế, hết sức đáng
quư! Mười phương hết thảy chư Phật,
Bồ Tát đều tán thán, đều khuyên dạy chúng ta
phải sanh về đó, nhưng chúng ta vẫn chẳng
muốn sanh về, quư vị nói xem nghiệp chướng
của quư vị nặng nề lắm thay! Bao nhiêu vị
Bồ Tát mong tưởng đến đó mà chẳng có
duyên phận này, chẳng gặp gỡ duyên phận này. Do
duyên phận, nay chúng ta được gặp gỡ, nhưng
chẳng mong sanh về, đúng là lầm lạc quá
đỗi! Đó là [pháp tu] rốt ráo viên măn, thành tựu
trong một đời!
“Nhân
Vương Kinh Sớ vân: Thí vật danh Công” (Nhân
Vương Kinh Sớ giảng: “Thí cho chúng sanh gọi là
Công”), Công ở đây là công đức, hai chữ “công
đức” giải thích ra sao? Ở đây có nói: “Quy kỷ viết Đức”
(Quy về ḿnh là Đức). Do vậy, công đức và
phước đức khác nhau, ngàn vạn phần
đừng coi tu phước là công đức; nếu
vậy, quư vị đă hoàn toàn sai lầm mất rồi!
Công là “thí vật”, ở
đây là “vật,” chẳng nói “thí cho người” mà nói “thí vật”. Nếu nói là
người th́ trong mười pháp giới chỉ có nhân
đạo, Ngài nói “vật”
bao gồm toàn bộ mười pháp giới trong ấy.
Đối với những kẻ ngang vai vế chúng ta th́
nói là “bố thí”, đối
với những bậc cao hơn chúng ta như chư thiên
th́ gọi là “cúng dường”.
Cúng dường cũng là bố thí, [nhưng nói “cúng dường”
th́] danh xưng tôn kính hơn một chút. Trên là cúng chư
Phật, Bồ Tát, chư thiên, thiện thần;
dưới là cúng dường cửu giới chúng sanh,
đều gọi chung là “vật”.
Trong chữ Vật này có hai ư nghĩa:
- Một là đối
tượng bố thí của chúng ta, nay chúng ta nói là hết
thảy người và vật.
- Thứ hai là nội dung bố
thí, có tài bố thí, pháp bố thí và vô úy bố thí. Chúng ta
dùng này ba thứ này để bố thí hay cúng dường,
trên là đến thiên thần, dưới là chúng sanh trong
địa ngục, tâm lượng ấy lớn lắm!
Các nhà khoa học hiện
thời nói đến các chiều không gian khác nhau, chúng ta
thường gọi chúng là “mười pháp giới”,
tức các chiều không gian khác nhau. Trong các chiều không
gian khác nhau đều có sinh vật, [bao gồm] lục
đạo chúng sanh chưa khai ngộ, hoặc là chúng sanh
thuộc bốn thánh pháp giới tuy đă khai ngộ
nhưng chưa viên măn, họ đều là đối
tượng để chúng ta bố thí hay cúng dường,
đó là “tu Công”. Quư vị tu Công nhất định
được lợi ích, lợi ích ǵ vậy? Quy về
chính ḿnh là Đức. Quư vị thí tài bèn được
của cải. Thưa quư vị, càng thí sẽ càng
nhiều!
Năm 1999, tôi ở Tân Gia Ba,
đề nghị với cư sĩ Lư Mộc Nguyên, khi
ấy ông ta làm Tổng Vụ của Cư Sĩ Lâm, Lâm
Trưởng là ông Trần Quang Biệt, nhưng ông Lư
giống như Chấp Hành Đổng Sự (giám
đốc điều hành), hết thảy mọi việc
trong Cư Sĩ Lâm đều do ông ta quản trị. Tôi
khuyên ông ta nên thí thực, tức là cho người khác
ăn cơm, cách làm ra sao? Cho mọi người
đến Cư Sĩ Lâm ăn cơm miễn phí, chẳng
phân biệt là tôn giáo nào, kẻ ấy có tin tưởng tôn
giáo hay không chẳng quan trọng, chỉ cần đến
ăn cơm, chúng tôi đều hoan nghênh, hoan nghênh kẻ
ấy đến ăn cơm. Lại c̣n ăn cơm không
gián đoạn. Ăn theo lối buffet, đến ăn lúc
nào cũng được, suốt ngày đêm hai mươi
bốn tiếng đồng hồ chẳng gián
đoạn, ban đêm vẫn mở cửa. Ban đêm th́ có
mạn đầu (bánh bao không nhân), bánh ḿ, điểm tâm,
cháo, thức ăn lót dạ[5], nước trà, hai mươi bốn
giờ chẳng gián đoạn. Ước chừng
mỗi ngày có hơn một ngàn người đến
Cư Sĩ Lâm ăn cơm. Cuối tuần hoặc ngày
lễ, cả ba bốn ngàn người, vô cùng náo nhiệt.
Khi đó, Cư Sĩ Lâm thâu nhập vẫn c̣n khá lắm,
chúng tôi thực hiện cách ấy. Làm chưa đến
một tháng, Cư Sĩ Lâm chẳng cần phải bỏ
ra đồng nào để mua sắm, v́ sao? Người
Tân Gia Ba đều biết tới, những đệ
tử Phật môn mỗi ngày đem gạo đến
biếu, dầu cũng biếu cho, rau dưa đưa
đến biếu, thứ ǵ cũng chẳng phải mua.
Biếu tặng nhiều quá, người ăn
được quá ít, mỗi ngày mấy ngàn người mà vẫn
ăn quá ít, những thứ ấy chẳng thể giữ
được, giữ lại chúng sẽ hư mất,
đặc biệt là rau dưa, làm thế nào đây? Cư
Sĩ Lâm t́m hai xe chở hàng nhỏ, mỗi ngày đưa
đi bố thí, biếu tặng bên ngoài, đưa
đến đâu? Các tôn giáo khác, họ có viện
dưỡng lăo, cô nhi viện, trường học, thảy
đều đem tặng hết. Tất cả các tôn giáo
chúng tôi đều bố thí, bố thí hết cả, càng
thí, càng nhiều! Do vậy, những tôn giáo ấy cũng
rất thân thiết với chúng tôi. Đến Cư Sĩ
Lâm ăn cơm, có chẳng ít món ăn, quầy buffet
của chúng tôi có từ mười lăm đến hai
mươi món ăn. Mỗi ngày đều là như
vậy, đều là mới nấu nóng hổi. Ông Hoàng Kim
Huy là Tổng Thống Tân Gia Ba xưa kia, có một hôm
đến Cư Sĩ Lâm dùng cơm, chúng tôi cùng ăn chung.
Ông ta nói với ông Lư Mộc Nguyên: “Các vị thật sự
giỏi quá! Trong nhà tôi thức ăn chỉ có năm món, quư
vị có đến hai mươi mấy món”. Do ông ta đến
thăm, nên hôm đó đặc biệt tăng thêm thức
ăn, nấu thêm mấy món nữa! “Quá phong phú, quư vị lấy
tiền từ đâu ra?” Khi các tu sĩ hoặc tín
đồ các tôn giáo đến đây ăn cơm cũng
đều hỏi như vậy, thấy có nhiều
người ngần ấy, quư vị lấy tiền
từ đâu ra? Ông Lư Mộc Nguyên nói: “Chúng tôi có ông chủ
làm hậu thuẫn”, họ hỏi: “Ông chủ là ai?” “A Di
Đà Phật”, chứng minh đức Phật nói chẳng
sai, càng thí, càng nhiều, thứ ǵ cũng có, chẳng
phải bận ḷng chút nào!
Hiện thời, quư vị
thấy trong nước cư sĩ Tề Tố B́nh ở
núi Đông Thiên Mục, chỗ bà ta là núi hoang, chẳng có ǵ
cả, phát tâm bố thí, mười mấy năm qua càng
thí càng nhiều. Đúng như trong Phật môn đă nói: “Trong cửa nhà Phật, có
cầu ắt ứng”. Quư vị phải hiểu rơ
đạo lư và chân tướng sự thật này, quư
vị đă hiểu rơ, sẽ yên tâm lớn mật bố
thí, chẳng sợ hăi. Quư vị hiểu đấy là
phước huệ chân thật, do bố thí mà có. Tài bố
thí được của cải, pháp bố thí
được thông minh, trí huệ, vô úy bố thí
được khỏe mạnh, sống lâu. Quư vị
thấy ba điều này có ai chẳng mong muốn! Của
cải do đâu mà có? Trong mạng có của cải là do
trong đời quá khứ quư vị đă tu tài bố thí.
Không phải trời già quyết định, cũng
chẳng phải do Phật, Bồ Tát ban cho! Ông tu ông
đắc, bà tu bà đắc, không tu không đắc!
Một người là như thế, một gia đ́nh là
như thế, một nước cũng là như thế.
Nếu người lănh đạo nước Mỹ
hiểu đạo lư này, cần ǵ phải phát động
chiến tranh? Chẳng cần! Quư vị vẫn là “hữu cầu tất ứng”.
Hơn nữa, phát động chiến tranh sẽ “cái
được chẳng bù nổi cái mất”. Trung Đông
nẩy sanh chiến tranh v́ sao? Vẫn chẳng phải v́
dầu hỏa! Nước quư vị có tiền, v́ sao không
mua dầu, mà phải tốn kém quân phí nhiều ngần
ấy? Quân phí nhiều ngần ấy để chiếm
lănh địa phương đó, điều ǵ cũng
chẳng đạt được, chẳng biết
phải tốn kém hơn món tiền bỏ ra mua dầu
chẳng biết bao nhiêu lần, lại c̣n chuốc lấy
tiếng xấu, c̣n chuốc cả đống phiền
phức. Phiền phức ǵ vậy? Chiến tranh khủng
bố. Tôi c̣n bảo đồng học truy t́m trên Internet,
t́m được một tin, nhưng không lưu ư, là
mỗi năm nước Mỹ tiêu tốn cho cuộc
chiến tranh chống khủng bố vượt xa chi phí
do hai cuộc Thế Chiến lần thứ nhất và
lần thứ hai gộp lại. Kinh khủng quá! Chẳng
phải là chính ḿnh chuốc lấy phiền phức ư?
Tôi hy vọng các đồng học t́m trên Internet tin này, hạ
tải xuống để tôi xem kỹ lưỡng hơn.
Họ học Phật th́ tốt hơn, nhưng chẳng
học Phật! Học Phật bèn hiểu rơ, muốn ǵ có
nấy, nhưng chẳng tạo tội nghiệp. Do
vậy, đối với “cầu” trong Phật pháp, xưa
kia, Chương Gia đại sư đă dạy tôi, có
đạo lư, có lư luận, có phương pháp. Đúng lư,
đúng pháp, có cầu ắt ứng, chẳng có ǵ là mê tín
trong ấy! Cần ǵ phải tạo tội nghiệp?
Tạo tội nghiệp chỉ khiến đức bị
khuyết, chỉ khiến cho của cải, trí huệ,
sức khỏe và tuổi thọ trong mạng của quư
vị bị giảm xuống, chẳng thể tăng lên.
V́ thế, giáo huấn của thánh hiền có giá trị, có
chỗ hữu dụng, chẳng thể không t́m lại.
Không chỉ phải t́m lại, mà c̣n phải đích thân
dốc sức hành, phát huy rộng lớn.
Tịnh Ảnh Sớ đă giải thích công đức như sau: “Công
vị công năng, chư hạnh giai hữu lợi ích chi
công, cố danh vi Công” (Công là công năng, các hạnh
đều có công năng lợi ích nên gọi là Công). “Chư hạnh”: Tư
tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, hành vi
được gọi là “chư
hạnh”, chúng đều có công năng lợi ích.
Nếu chúng tùy thuận Tánh Đức, đó là Công. Trái
phạm Tánh Đức th́ tạo nghiệt (tạo nên
những mầm mống tội lỗi, khổ quả),
như vậy là có tội! Theo bước thánh hiền,
cổ thánh tiên hiền, chư Phật, Bồ Tát, thánh
hiền của các tôn giáo Tây Phương, đều là Công.
Vi phạm giáo huấn của thánh hiền là Tội. “Thử công thị thiện hành
gia đức” (công ấy là đức sẵn có của
người làm lành), chúng tôi đổi một chữ trong
câu này cho mọi người dễ hiểu, tức là “thiện hành nhân gia chi
đức” (đức của người làm
điều thiện), “thiện
hành gia đức” có nghĩa như vậy. Đức
ấy cũng đạt được, quư vị có
được của cải, thông minh, trí huệ, khỏe
mạnh, sống lâu. “Cố
danh công đức” (nên gọi là công đức). Cách
giải thích chữ Công Đức này cũng rất hay. “Đức thể danh pháp”
(Thể của đức là pháp), đức ấy do
đâu mà có? Do pháp, tức là an trụ trong hết thảy
các pháp công đức. Lại phải giải thích chữ
Pháp này. “Phạn vân Đạt
Ma” (tiếng Phạn là Dharma), Dharma là tiếng Ấn
Độ, tiếng Phạn là Dharma, người Hoa
dịch là Pháp, “thông ư
nhất thiết” (chỉ chung hết thảy), đây là
danh từ chung để chỉ hết thảy vạn
sự vạn vật. “Vô
luận tiểu giả, đại giả, hữu h́nh
giả, vô h́nh giả, chân thật giả, hư vọng
giả, thị sự vật giả, thị đạo lư
giả” (bất luận là lớn, nhỏ, hữu h́nh,
vô h́nh, chân thật, hư vọng, là sự vật hay là
đạo lư), nói ngắn gọn, dùng một chữ
để xưng hô là Pháp. Đó là cách xưng hô theo
Đối Pháp[6]. Trong toàn thể vũ trụ, trong giáo
pháp Đại Thừa thường dùng sáu chữ
để bao gồm toàn bộ hết thảy mọi
sự trong vũ trụ. Sáu chữ là:
- Tánh - Tướng: Trong
triết học gọi Tánh là bản thể của vũ
trụ, Tướng là hiện tượng. Kinh Phật
dùng danh từ này, Triết Học hiện thời cũng
dùng danh từ này.
- Thứ hai là Lư - Sự. Lư là lư
luận, Sự là tất cả hết thảy tạo tác,
biến hóa. Sách Hoàn Nguyên Quán nói “xuất
sanh vô tận”, đó là Sự, nó biến hóa. Y báo và chánh
báo trang nghiêm trong mười pháp giới [đều
thuộc về Sự]. Tự tánh thanh tịnh viên minh
thể là Lư. Do vậy, Lư là Thể, Sự là Tướng,
đặc biệt coi trọng sự biến hóa.
- Hai chữ sau đó là Nhân - Quả.
Tánh - Tướng, Lư - Sự,
Nhân - Quả đă bao gồm trọn hết toàn thể
vũ trụ, chẳng sót một pháp nào. Phật pháp
thường nói như thế.
“Duy
Thức Luận viết” (Duy Thức Luận nói), nêu kinh
luận để giải thích danh tướng này, “Pháp vị quỹ tŕ. Quỹ
vị quỹ phạm (軌範), khả
sanh vật giải” (Pháp là quỹ tŕ (duy tŕ theo đúng
đường lối). Quỹ (軌) là đường lối, khuôn khổ,
có thể khiến cho chúng sanh khởi lên kiến giải).
Quỹ là quỹ đạo (軌道: đường lối định
sẵn), cũng là “trật tự” như ta nói trong hiện
thời. Trong toàn thể vũ trụ, quư vị thấy
tinh hệ, ngân hà, chúng ta nói tới ngân hà, những tinh
cầu ấy vận hành trong vũ trụ đều có
quỹ đạo, tuy rất nhiều, cũng là vô số
vô lượng; nhưng chúng có trật tự nhất
định, chẳng xảy ra va chạm, điều
đó gọi là Quỹ; v́ thế, nay chúng ta gọi là “pháp
tắc thiên nhiên”. Trên địa cầu có rất nhiều
sinh vật, những sinh vật cùng tồn tại, sinh
trưởng trên địa cầu, có liên quan với nhau. Do
liên quan lẫn nhau mới tạo thành cân bằng sinh thái trên
địa cầu, địa cầu phát triển tốt
đẹp, quư vị chớ nên phá hoại. Nếu con
người tùy thuận thiên nhiên, sẽ thuận lợi
nhất; phá hoại thiên nhiên, tai nạn sẽ xảy
đến. Chúng tôi nêu một thí dụ rơ rệt nhất.
Cha mẹ sanh ra chúng ta có thân thể này, đó là tự nhiên.
Chúng ta tùy thuận tự nhiên, khéo yêu thương thân
thể này, quư vị sẽ cả đời khỏe
mạnh, hạnh phúc. Nếu quư vị chẳng ưa thích
nó, muốn đến thẩm mỹ viện, biến
đổi khuôn mặt tự nhiên thành dáng vẻ như quư
vị tưởng tượng. Có thể hay không? Có
thể chứ! Sau khi đi thẩm mỹ viện, [thỏa
ư] đại khái được mấy năm, quư vị phải
khổ cả đời, đau khổ cả đời,
nỗi khổ ấy do chính quư vị chuốc lấy.
Ở Úc Châu Học Viện, có một nữ cư sĩ làm
công quả, thuở trẻ đi sửa mũi, sống
mũi được nâng cao hơn, sau lúc bốn
mươi tuổi đau khổ không chịu nổi,
mỗi ngày phải chịu tội, gặp tôi kể chuyện
ấy. Tôi nói: “Bà đă phá hoại cân bằng sinh thái tự
nhiên, nên hiện thời phải chịu tai nạn này”.
Khoa học kỹ thuật phát
triển, mọi người đă hiểu sai lời
cổ nhân: “Nhân định
thắng thiên”, hiện thời người ta hiểu
câu ấy nghĩa là ǵ? Con người nhất định
có thể thắng thiên, tức là chiến thắng tự
nhiên, trật lất rồi! Trước đây
người ta nói “nhân
định thắng thiên” nghĩa là con người
phải định, nói về tu Thiền Định. Có
Thiền Định rất sâu, Định sanh trí huệ,
năng lực ấy có thể thắng thiên, có ư nghĩa
như vậy. Nay tâm quư vị dao động, hời
hợt, học được một chút khoa học
kỹ thuật, liền nghĩ ḿnh vạn năng, có
thể thắng thiên hay không? Quư vị thấy hiện
thời quư vị thay đổi sinh thái tự nhiên,
khiến cho địa cầu tức giận, nổi nóng,
nó phải trả thù. Nó lay động nhè nhẹ, những
cao ốc, dinh thự bèn sụp đổ hoàn toàn, quư
vị có đấu lại nó hay không? Cổ nhân nói
chẳng sai, nhưng hiện thời rất nhiều ư
nghĩa đă bị vặn vẹo, hiểu lệch
lạc mất rồi! Bởi lẽ, đối với
tự nhiên, cổ nhân kính trời, kính quỷ thần.
Khổng phu tử cũng chẳng phải là ngoại
lệ: “Kính quỷ thần nhi
viễn chi”, “viễn chi” là
ǵ? Chẳng để cho quỷ thần thao túng! Thật
ra, điều ấy tương ứng với
mười đại nguyện vương, lễ kính
chư Phật, kể cả trời, đất, quỷ
thần, bao gồm núi, sông, đại địa, không ǵ
chẳng kính. Quỷ thần cung cấp tin tức
thiện, chúng ta có thể tiếp nhận; nếu là
bất thiện, vi phạm pháp tắc thiên nhiên, chúng ta chẳng
cần phải tiếp nhận nó. Tương ứng
với pháp tắc của thiên nhiên th́ chúng ta có thể
tiếp nhận, chấp nhận. Trong trời đất,
quỷ thần có kẻ thiện lương, chẳng
phải là không có, nhưng kẻ bất thiện cũng
chẳng ít, chúng ta chớ nên không biết. Nhất
định phải dùng định lực, tâm chớ nên bộp
chộp, hời hợt, đừng nên bị xung
động bởi cảm t́nh, hăy dùng lư trí để
xử sự ḥng khỏi mắc phải lỗi lầm!
Con người hiện thời
đi sau tiến bộ khoa học, thật vậy, chúng ta
có lỗi với địa cầu, có lỗi với núi,
sông, đại địa, khai thác bừa băi, phá hoại
tùy tiện, chẳng có một chút tâm cung kính nào. Phật
pháp cho chúng ta biết cây cối, hoa, cỏ đều có
linh tánh. Trong kinh điển, đức Phật bảo chúng
ta cây cối nào có chiều cao bằng con
người th́ cây ấy có thần cây. Chẳng phải là
cây thành thần mà là do linh thể (spirits) dựa vào cây,
họ nghĩ cây ấy là nơi cư trụ của
họ, nguyên nhân là như vậy đó. V́ thế,
trước kia, người xuất gia tu hành trên núi,
chặt mấy cây để dựng một túp lều
tranh, đức Phật cho phép, nhưng ba ngày trước
khi quư vị muốn chặt cây ấy, phải cúng tế
thần cây, tụng kinh hồi hướng cho họ, xin
phép họ ba ngày sau sẽ chặt cây, xin họ dọn nhà
đi, thông báo, loan tin cho họ. Đâu có giống như trong
hiện thời, chặt phá cả đống, chẳng
thèm thông báo, quư vị nói xem như vậy th́ thần cây có
tức giận hay không? Họ sẽ kiếm chuyện
với quư vị. Đào quặng, vừa đủ bèn
ngưng, chớ nên có tâm tham. Có tâm tham, phiền phức
sẽ xảy đến. Hiện thời đă làm quá
lố rồi, quá sức quá lố, nên núi, sông, đại
địa biến đổi nhiều, rơ rệt lắm!
Đến tột cùng, rất có thể toàn thể
đại lục sẽ bị ch́m xuống đáy
biển!
Trong quá khứ đă từng có
chuyện này, các nhà khoa học nói: Trên địa cầu,
khoảng chừng năm vạn năm trước, khoa
học kỹ thuật cũng khá phát triển. Trên thế
giới này có nước Đại Tây (Atlantis), do cũng
làm quá lố, luân lư, đạo đức, nhân quả
đều chẳng cần đến nữa, tin
tưởng nhân định thắng thiên, tùy ư phá hư
địa cầu, tùy tiện thay đổi núi, sông, đại
địa đến nỗi lục địa ch́m
xuống đáy biển. Chỗ hiện thời là
Đại Tây Dương, vào thời cổ là Đại
Tây quốc. Chuyện này có thật hay không? Hiện nay,
rất nhiều nhà thám hiểm đă ngồi tàu ngầm
đến đáy biển quan sát, phát hiện thật
sự có di tích thành thị dưới đáy biển,
chứng tỏ chuyện này chẳng giả, biên giới
của khu vực ấy gần sát nước Mỹ và Ba
Tây. Trong quá khứ, địa cầu đă có tấm
gương ấy, nếu người hiện thời làm
quá lố, cũng có thể gặp t́nh trạng này.
Đối với những chuyện này, Phật pháp đă
tiết lộ tin tức, chúng ta phải coi trọng,
Phật, Bồ Tát chẳng nói lời giả. Làm
người phải theo quy củ, phải tuân thủ,
giữ vững “quỹ đạo” của chính ḿnh, phải
nêu gương điển h́nh cho đại chúng. Bởi
lẽ, hết thảy các pháp đều có quỹ phạm
(đường lối, phạm vi riêng biệt) “khả sanh vật giải”,
chữ “vật” này chỉ
chúng sanh, [“khả sanh vật
giải” nghĩa là] khiến cho chúng sanh thấy
những hiện tượng ấy sẽ có thể lư
giải, biết Sự và Lư của nó, có thể lư giải
[Sự và Lư ấy].
“Lệ
như vô thường” (chẳng hạn như [danh
từ] Vô Thường), vô thường là danh tướng.
“Sử nhân sanh khởi vô
thường chi giải” (khiến cho người ta phát
khởi sự thấu hiểu đối với vô
thường), danh từ này có thể khiến cho một
số người đối với tất cả hết
thảy các pháp trong thế gian sanh khởi sự lư giải
về vô thường, biết kinh Phật giảng hết
thảy các pháp chẳng thật, “phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”,
v́ sao? Nó vô thường, chẳng thể tồn tại
vĩnh hằng, biến hóa trong từng sát-na. Không phải
chỉ riêng địa cầu biến hóa trong từng
sát-na, mà khắp pháp giới hư không giới đều biến
hóa trong từng sát-na; hiện thời, các nhà khoa học
đă phát hiện chân tướng sự thật này. Ai
chủ tŕ sự biến hóa trong từng sát-na ấy?
Đức Phật dạy: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, chủ tể
là niệm, tức ư niệm. Hiện thời, các nhà
Lượng Tử Học đă phát hiện chuyện này,
trong kinh, đức Phật giảng đạo lư sâu
như vậy, người b́nh thường rất khó
hiểu, nếu được Lượng Tử Học
chứng minh sẽ rất hữu ích cho Phật pháp.
Quả nhiên chứng thực những điều
được nói trong kinh giáo Đại Thừa
đều là sự thật, đối với Phật pháp
và sự giáo học của các tôn giáo sẽ khởi tác
dụng rất lớn, người ta chẳng c̣n coi tôn
giáo là mê tín nữa. Giáo dục tôn giáo sẽ có tác dụng
rất lớn đối với nhân loại, thật
sự có thể hóa giải hết thảy tai nạn, giúp
xă hội khôi phục an định, ḥa hài. Chúng ta phải
khẳng định cổ thánh tiên hiền chẳng
phải là vô tri, chẳng phải là mê tín, mà thông minh hơn
chúng ta nhiều lắm, chúng ta thua kém họ rất xa!
“Tŕ
vị trụ tŕ, bất xả tự tướng,
nhất thiết chư pháp, các hữu kỳ tướng” (Tŕ [trong quỹ tŕ] có nghĩa là ǵn
giữ, chẳng bỏ tự tướng, hết thảy
các pháp mỗi pháp đều có tướng của nó), ư nói
hết thảy các pháp có thể duy tŕ trong một khoảng
thời gian. Trên thực tế, nó biến hóa trong từng
sát-na, nhưng biến hóa rất nhỏ yếu, chúng ta nh́n
không ra. Chẳng hạn như con người biến
đổi mỗi ngày, già yếu trong từng sát-na, luôn
biến hóa, nhưng nếu chỉ vài ngày th́ chúng ta không
thấy người đó già suy, phải sau một hai
năm mới thấy người ấy thật sự
biến đổi đôi chút, chẳng đột nhiên
biến đổi, mà biến đổi trong từng sát-na.
Hiện tượng này được gọi là Tŕ hay
Bảo Tŕ. Tiếp đó, sách viết: “An trụ nhất thiết, Hội Sớ thuyết:
An trụ giả, bất động nghĩa” (“An
trụ hết thảy”: Hội Sớ nói: “An trụ
nghĩa là bất động”), “bất
động” ở đây chẳng phải là thật
sự bất động. “Đức
thành bất thoái, cố viết An Trụ” (đức
thành tựu, chẳng lui sụt, nên gọi là An Trụ), câu
này nói rất hay. “Vô đức
bất cụ, cố vân nhất thiết” (không
đức nào chẳng đủ, nên nói là “hết
thảy”), ư nghĩa này cũng vô cùng hay. Tu đức có
thành tựu, A Lại Da gần với chân tâm, đó là
hiện tượng trong bốn thánh pháp giới, chưa
thật sự chuyển thức thành trí, nhưng có thể
tuân thủ giáo huấn của thánh hiền, nghiêm túc giữ
ǵn giáo huấn của thánh hiền, người ấy có
đức này. Thể của đức ấy là Tánh
Đức. Tu đức tương ứng với Tánh
Đức; do vậy, tuy là vô thường, tốc
độ [biến đổi] của nó thong thả.
Hiện tại, khoa học đă tăng nhanh tốc
độ vô thường, giáo huấn của thánh nhân
khiến vô thường chậm lại, quư vị thấy
hai thứ hiệu quả khác nhau. V́ thế, giáo huấn
của thánh hiền đem lại an trụ, b́nh an, ḥa hài,
khoa học đem lại động loạn cho xă hội.
Hiện thời, mỗi cá nhân chúng ta đều biết nói
điều này, nhưng mỗi cá nhân đều chẳng
cam ḷng, chẳng bằng ḷng, nhưng chẳng làm sao
được, đều mong làm sao để khôi phục
sự b́nh thường, đó là đại sự; nhưng
nếu ư niệm của mọi người đều khôi
phục b́nh thường sẽ chẳng khó, nhất
định phải cậy vào giáo huấn của thánh
hiền. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta
học tập tới chỗ này.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải
Diễn Nghĩa
Phần 50 hết
[1] Có rất nhiều cách giải thích câu
này, nói chung khó hiểu và không rơ ràng, nên chúng tôi chọn cách
giải thích đơn giản của giáo sư Từ
Tỉnh Dân trong tác phẩm Độc Dịch Giản
Thuyết. Theo đó, sanh mạng của chúng ta do Âm
Dương của cha mẹ kết hợp, trước
đó, du hồn của chúng ta nhập vào thai, nhờ vào
tinh khí của cha mẹ để thành thân h́nh, đó là “tinh khí vi vật”, hoặc
gọi là Sanh. Khi thân thể chúng ta suy lăo, âm dương phân
ly, do vậy, hồn mất nơi nương tựa,
đó là chết. Hồn mất nơi nương tựa,
phiêu đăng nên gọi là Du Hồn. Cho đến khi âm
dương giao hội, do khí phận tương cảm,
lại nương gá vào để chuyển thế lần
nữa, nên gọi là “du hồn
vi biến”.
[2] Tử Cấm Thành là cung điện
của nhà vua. Tử Cấm Thành là danh xưng chỉ có
từ thời Minh trở đi, chỉ cho hai nơi:
1. Cố Cung nhà Minh ở Nam Kinh, c̣n gọi là Nam Kinh
Cố Cung, do Châu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) bắt
đầu xây dựng vảo năm Chí Nguyên 27 (1367). Khi
ấy, Châu Nguyên Chương vẫn c̣n là Ngô Vương,
chưa xưng đế, nên c̣n gọi là Ngô Vương Tân
Cung. Cung ở phía Nam núi Chung Sơn, có kích thước 790x750
mét, gồm nhiều điện như Phụng Thiên,
Cẩn Thân, Văn Lâu, Vũ Lâu, Càn Thanh Cung, Khôn Ninh Cung,
Đông Tây Lục Cung, chia thành bốn cửa chính là Ngọ
Môn, Tây Hoa, Huyền Vũ, Đông Hoa. Phía sau cửa Ngọ
Môn lại có thêm một lớp cửa là Phụng Thiên Môn.
Sau khi Minh Thành Tổ dời đô về Bắc Kinh, nơi
này được gọi là Cố Cung, và dùng làm hành cung
nếu vua xuống phương Nam. Khi bọn phỉ Thái
B́nh Thiên Quốc tấn công Nam Kinh dưới đời
nhà Thanh đă phá hủy, đốt cháy toàn bộ cung
điện này.
2. Tử Cấm Thành (Cố Cung Bác Vật Quán)
tại Bắc Kinh là cung điện do Minh Thành Tổ xây khi
dời đô lên Bắc Kinh và được dùng làm cung
điện nhà vua măi cho đến khi nhà Thanh sụp
đổ.
[3] Một na-do-tha (na-dữu-đa) là
một con số khá lớn. Cụ thể lớn bao nhiêu
th́ có nhiều thuyết khác biệt. Đời Nguyên, Châu
Thế Kiệt đă cho rằng Na Do Tha là một vạn
vạn lần A Tăng Kỳ. Một A Tăng Kỳ là 10
lũy thừa 104, tức là sau con số một (1) có 104
số 0. Na Do Tha là sau số một có 112 con số 0.
Thuyết này hơi khác với lời dạy trong kinh Hoa
Nghiêm (theo phẩm A Tăng Kỳ của kinh Hoa Nghiêm th́ Na
Do Tha chỉ là 10 lũy thừa 28).
[4] Bất khả thuyết bất khả
thuyết là một con số rất lớn trong kinh Hoa
Nghiêm. Phẩm A Tăng Kỳ nói Tâm Vương Bồ Tát
hỏi Phật về các con số, đức Phật bèn
dạy: Một trăm lạc xoa là một câu chi, câu chi
lần câu chi là một a dữu đa, a dữu đa
lần a dữu đa là một na do tha, na do tha lần na do
tha là một tối thắng... cho đến bất
khả tư nghị lần bất khả tư nghị
là một bất khả tư nghị chuyển, bất
khả tư nghị chuyển lần bất khả tư
nghị chuyển là một bất khả lượng,
bất khả lượng lần bất khả
lượng là một bất khả lượng
chuyển, bất khả lượng chuyển lần
bất khả lượng chuyển là một bất
khả thuyết, bất khả thuyết lần bất
khả thuyết là một bất khả thuyết
chuyển, bất khả thuyết chuyển lần bất
khả thuyết chuyển là một bất khả
thuyết bất khả thuyết. Một lạc-xoa là
mười vạn (100.000).
[5] Nguyên văn Tiểu Thái. Theo cách gọi
của người Đài Loan, đây là những món ăn lặt
vặt được chuẩn bị với số
lượng ít, thường dùng như món khai vị,
hoặc lót dạ trước khi ăn các món chính thức,
chẳng hạn dưa leo trộn chua ngọt, sứa
trộn, đậu nành non trộn thật cay v.v...
[6] Đối Pháp hiểu theo nghĩa
hẹp là Luận Tạng, hiểu theo nghĩa rộng là
danh từ thuật ngữ trong Phật pháp. Đối Pháp
nghĩa là dùng trí huệ nơi thánh đạo vô lậu
để quán sát đạo lư Tứ Đế và thật
quả Niết Bàn.